Trong cuộc chiến tranh đánh tan giặc Ân của Hùng Vương thứ VI cách đây 2.500 năm có một vị tướng gan dạ, dũng mãnh, chỉ huy đội thân binh đông đến vài nghìn người, tất cả đều dùng một loại vũ khí là chiếc vồ đập đất. Đó là danh tướng Đỗ Phụng Trân.
Tương truyền, thời Hùng Vương thứ sáu (Hùng Huy Vương), giặc
mũi đỏ (Xích Tụy - thường gọi là giặc Ân) xua quân xâm lược Văn Lang, trước sức
mạnh như chẻ tre của quân giặc, vua Hùng lo lắng, sai sứ đi khắp nơi trong
thiên hạ cầu tài.
Khi đến vùng đất Khê Kiều (xã Minh Khai), La Điền, nay thuộc
các làng La Điền, Thượng Điền, La Uyên, Phú Lễ (xã Tự Tân) huyện Vũ Thư, sứ giả
loan tin vua Hùng chiêu tập anh tài đánh giặc, Đỗ Phụng Trân đang dạy học nghe
tin giặc dã xâm lăng liền tập hợp học trò hội kinh xung trận…
Đình Phù Lễ, nơi thờ phụng song thân Nho tướng Đỗ Phụng Trân
Theo thần phả, thần tích và sắc phong đình Phú Lễ do Đông
Các đại học sĩ Hàn lâm viện Nguyễn Bính triều Lê Anh Tông, năm Hồng Phúc
thứ nhất (1572) được giao chỉnh lý biên soạn xong các thần phả, ngọc phả của
các làng xã trong toàn quốc gia Đại Việt để triều đình sắc phong, trong đó có
đình Phú Lễ, tổng Vô Ngại, huyện Thư Trì (nay là thôn Phú Lễ, xã Tự Tân, huyện
Vũ Thư) về sự tích Phụng Trân thời vua Hùng thứ VI và sắc phong cho làng Phú Lễ
được tôn thờ thân phụ, thân mẫu nho tướng Đỗ Phụng Trân và danh tướng Phụng
Trân có công lao đánh tan giặc Ân, bảo vệ nền độc lập, tự do cho nhà nước Văn
Lang.
Trong chuyến điền dã về vùng đất cổ thuộc tổng Vô Ngại, huyện
Thư Trì (xưa) tìm hiểu về nghệ thuật kiến trúc đình Phú Lễ, điều đáng chú ý là
ngôi đình có hậu cung (cấm cung) gồm hai tòa cung thờ Nhị vị Thành hoàng làng
là thân phụ, thân mẫu danh tướng Đỗ Phụng Trân (thời Hùng Huy Vương) và phối thờ
“vọng” (con) là danh tướng Đỗ Phụng Trân, nhóm nghiên cứu dân gian chúng tôi được
ông Trần Sĩ Củng dẫn tới nhà “thầy đồ Nho già” Lại Văn Hiện ở thôn Phú Lễ,
nguyên Hiệu trưởng Trường Tiểu học Tự Tân.
Là người am hiểu Hán tự, ông Lại Văn Hiện dành nhiều tâm sức
ghi chép, dịch thuật văn bia, thần tích, ngọc phả, sắc phong của các triều đại
phong kiến cho đình Phú Lễ. Ông cho biết, đình có rất nhiều câu đối, hoành phi
cổ có giá trị cao về Hán tự, đáng chú ý là 6 bức đại tự cổ.
Vốn di sản Hán Nôm tại đình Phú Lễ cho ta biết rõ hơn về lịch
sử vùng đất xuất hiện cách ngày nay khoảng 2.500 năm. Thời vua Hùng thứ VI,
vùng đất này có nhiều gò đống, đất đai màu mỡ, nhiều sông lạch nhỏ bao quanh tạo
nên thế đất phong thủy dễ sinh cơ nghiệp lớn.
Cư dân từ miền ngược xuôi dòng sông Cái (sông Hồng nay) về
đây khai hoang, lập ấp, quần cư sinh sống, trong đó có gia đình Đỗ Công (cụ Đỗ
Huân, vợ là Trương Thị Chước) thân sinh ra Đỗ Phụng Trân. Người dân Phú Lễ cũng
như cư dân vùng lân cận có phong tục dựng nhà bằng phương pháp “trình tường” đất
sét, nghĩa là dùng đất sét để đắp thành tường nhà.
Trong phương pháp này, người dân dùng những chiếc vồ (công cụ
đập đất gieo hạt trong canh tác, gieo trồng các loại ngũ cốc) được tạo bằng một
đoạn thân cây gỗ lâu năm, cán vồ bằng tre hóp, già và dẻo dai. Khi đắp tường đất,
người dân dùng vồ nện đất cho chặt. Cũng chính những chiếc vồ đơn sơ này được người
dân tận dụng làm vũ khí đánh giặc khi cần.
Trong những giai thoại lưu truyền đến ngày nay về cuộc trường
chinh đánh tan giặc Ân của vua Hùng thứ VI đánh cách ngày nay 2.500 năm có một
vị tướng gan dạ, dũng mãnh, lãnh đạo cả một đội quân đông đến vài nghìn người,
tất cả đều dùng một loại vũ khí là chiếc vồ đập đất.
Vị tướng đó tương truyền là Phụng Trân, cha mẹ là người xứ Hồng
Châu (Châu Diên). Năm 18 tuổi, cha mẹ Phụng Trân đột ngột qua đời, Phụng Trân
chịu tang xong liền chu du thiên hạ. Một lần đặt chân đến trang Khê Kiều (nay
là làng Khê Kiều, xã Minh Khai, huyện Vũ Thư), gặp một phú ông tại bản trang.
Tâm tình trò chuyện, phú ông thấy chàng trai khôi ngô, tuấn tú, đối đáp lễ độ của
người biết chữ nên ông giữ chàng trai Phụng Trân ở lại, mở trường học và mời Phụng
Trân làm thầy.
Con em dân nghèo Khê Kiều, La Điền, Thượng Điền, Phú Lễ, La
Uyên kéo đến học chữ ngày một đông. Lưu lại trang Khê Kiều mấy năm dạy học, bỗng
giặc Ân quấy phá biên ải rồi kéo quân tràn vào Văn Lang xâm lược. Nghe lời thỉnh
cầu của Hùng Huy Vương, Phụng Trân cùng đám học trò của mình dấy binh về kinh
tham gia đánh giặc Ân.
Trong trận huyết chiến, Phụng Trân là tướng cầm vồ cùng đội
quân cầm vồ của mình hộ giúp Thánh Gióng (Phù Đổng Thiên Vương) đánh tan giặc
Ân. Đất nước sạch bóng quân xâm lược, Thánh Gióng phi ngựa lên đỉnh núi Sóc, bỏ
áo giáp sắt bay về trời. Phụng Trân đuổi giặc Ân ra ngoài biển khơi cũng quay về
Hồng Châu (Châu Diên) bái tạ tổ tiên rồi hóa về trời.
Vua Hùng thương tiếc sắc phong Phụng Trân là An Dung Quảng
Bác Đại Vương. Sắc ban cho 5 làng Khê Kiều, La Điền, Thượng Điền, Phú Lễ, La
Uyên hương khói phụng thờ. Đình làng Phú Lễ thờ vọng danh tướng Đỗ Phụng Trân
nhưng được phép thờ thân phụ, thân mẫu của ngài.
Ngay chính giữa tòa đại bái của ngôi đình là bức đại tự cổ
sơn son, thếp vàng 4 chữ “Hùng triều nho tướng” đại ý chỉ danh nho Đỗ Phụng
Trân là thầy dạy học nhưng khi vận nước gian nguy ông đã vận động học trò của
mình tạm gác bút nghiên lên đường đánh giặc mũi đỏ (Xích Tụy) xâm lăng và trở
thành danh tướng của triều đại vua Hùng.
Trở lại với bản thần tích lưu truyền nhiều đời tại đình Phú
Lễ (bản sao chữ Hán) do Đông Các Đại học sĩ Hàn lâm viện Nguyễn Bính soạn năm Hồng
Phúc thứ nhất (1572) mà ông Lại Văn Hiện đã đọc và dịch, đại ý: “…đời vua Hùng
Huy Vương thứ VI, tại đất Hồng Châu (Châu Diên xưa) có gia đình ông Đỗ Huân vợ
là Trương Thị Chước, thường tích thiện làm nhân. Đỗ Công đã 50 tuổi, bà Trương
Thị cũng ngoại tứ tuần mà chưa có con. Vì thế ông bà Đỗ Công thường đem của cải
cứu giúp người nghèo khổ, già cả.
Nhân tiết Thanh minh vợ chồng ông thắp hương trước mộ tổ
tiên, than thở, lo lắng vì chưa có người nối dõi tông đường, trên đường về gặp
một cụ già râu tóc bạc phơ nhìn vợ chồng Đỗ Công mà phán rằng “Đáy bể mò kim
còn khó được, nhưng người ta làm việc thiện, ông trời ắt thương”. Từ đó phàm những
việc giúp người tạo phúc ông bà Đỗ Công đều cố gắng làm.
Một đêm trăng sao vằng
vặc, ông bà Đỗ Công ngồi trước sân nhà thắp hương cầu khấn, bỗng nhiên có con
công ở trên trời bay xuống đậu trước cửa nhà, một lát sau biến mất.
Sau đêm ấy, bà Trương Thị có mang, 12 tháng sau nhằm ngày 9
tháng 8 năm Mậu Tuất sinh hạ một đứa con trai, diện mạo khôi ngô, ngũ nhạc hội
chầu, tám đình bằng phẳng. Đỗ Công liền đặt tên con là Phụng Trân. Lớn lên, Đỗ
Phụng Trân rất thông minh, theo thầy Tĩnh Đường Tiên Sinh để học binh thư, võ
nghệ, cung nỏ, bạn bè ai cũng nể phục.
Suốt dọc chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước từ triều đại
vua Hùng đến nay loại vũ khí “vồ tay” đập đất của cư dân tổng Vô Ngại (vùng Khê
Kiều, La Điền, Vũ Thư) vẫn là “độc nhất vô nhị” từng được danh tướng Đỗ Phụng
Trân dùng làm vũ khí hội quân với Thánh Gióng nhổ tre làng Ngà đánh tan giặc Ân
bảo vệ nhân dân và giữ yên bờ cõi non sông.
Câu đối cổ còn giữ được tại đình Phú Lễ: “Công phù thiết mã
Hùng triều lương tướng quốc phong thần/Mộng ứng ngọc kê hồng quân chân nho
thiên khải thánh”. (tạm hiểu về sự tích Phụng Trân sinh ra có con chim Phượng
(Phụng) màu trắng báo mộng lớn lên hiển tướng công). “Tư phù trí tuệ phù tài đức/Dĩ
bảo lê dân bảo tử tôn”. Theo nghĩa Hán tự, đình là nơi thờ song thân phụ mẫu và
thờ vọng danh tướng Đỗ Phụng Trân vừa là nhà giáo dạy con cháu dân lành biết chữ
vừa là nho tướng thời Hùng Huy Vương.
Đình Phú Lễ có kiến trúc độc đáo, tòa đại bái 7 gian gỗ lim,
chồng rường, hiên bảy. Tòa hậu cung gồm hai cung cấm, một bên thờ song thân phụ
mẫu, một bên thờ vọng danh tướng Đỗ Phụng Trân.
Theo các cụ truyền lại, đình Phú Lễ được xây dựng lại năm
1589, trước đó các cụ cũng không nhớ rõ. Đến năm 1739, trùng tu đợt I, đến năm
2006 trùng tu đợt II và đợt III trùng tu vào năm 2018 chủ yếu là xây lại trụ cổng,
đảo ngói chống dột do ông Phạm Nhật Lệ là con cháu của làng xa quê công đức.
Đình Phú Lễ với nghệ thuật kiến trúc thời Lê độc đáo 7 gian
tiền tế hai tòa hậu cung chồng diêm cổ các đã được đăng ký bảo vệ và công nhận
di tích lịch sử văn hóa cấp tỉnh, chúng tôi mong các cấp chính quyền quan tâm để
di tích được công nhận di tích lịch sử văn hóa quốc gia.
Quang Viện