Điện phân là một kỹ thuật được sử dụng trong hóa học để điều khiển một phản ứng trơ khác. Ứng dụng thực tế nhất của điện phân là phản ứng được sử dụng để chuyển đổi các phân tử nước thành khí hydro và oxy, giải pháp tối ưu lưu trữ năng lượng được tạo ra bởi các nguồn tái tạo như gió và mặt trời.
Năng lượng, lưu trữ trong những liên kết hóa học của các
phân tử hydro, sẽ được sử dụng khi không có gió lặng hoặc lúc không có ánh sáng
mặt trời.
Nhưng để phương pháp lưu trữ này khả thi về mặt kinh tế,
công nghệ phân tách nước hiện tại cần phải hiệu quả hơn và có giá thành hợp lý
hơn, Ben Wiley, giáo sư hóa học của trường Đại học Duke, Mỹ nhận xét.
Cách nhanh nhất để giảm chi phí điện phân là tăng năng suất
của thiết bị điện phân.
Nghiên cứu vấn đề này, nhóm nhà khoa học do Wiley dẫn đầu chế
tạo ba điện cực niken khác nhau – điện cực làm từ bọt niken, điện cực phủ lớp sợi
niken và điện cực lớp phủ dây nano. Thực hiện nghiên cứu sự trao đổi giữa diện
tích giao diện hoạt động và cấu trúc tiếp
xúc bề mặt đối với hiệu suất công tác của điện cực.
Kết quả nghiên cứu của nhóm được công bố trên tạp chí Vật liệu Năng lượng Tiên tiến “Advanced Energy
Materials”.
Phân tách nước thành Hydro và Oxy.
Mục tiêu của nghiên cứu đề ra là tăng cường diện tích bề mặt
có ích cho các phản ứng diễn ra đồng thời giảm thiểu lượng bọt khí bị dính trên
bề mặt điện cực.
Giáo sư Wiley cho biết: “Tốc độ tối đa phân tách hydro thường
bị giới hạn bởi các bong bóng khí ngăn chặn trên điện cực - theo nghĩa đen là
ngăn cản nước chảy trên bề mặt, dưới tác dụng của điện phân tách ra thành hydro
và ô xy”.
Ba cấu hình khác nhau của lớp phủ trên các điện cực ảnh hưởng
đến dòng chảy của nước qua vật liệu trong phản ứng phân tách nước.
Điện cực bọt niken là một giải pháp tuyệt vời cho phép các
bong bóng hydro thoát ra, nhưng bề mặt xốp khiến diện tích tiếp xúc cho phản ứng
xảy ra bị hạn chế, làm giảm năng suất phân tách nước.
Lớp phủ điện cực chế tạo bằng dây nano niken-đồng khởi điểm
ban phân tách nước thành hydro hiệu quả hơn do diện tích bề mặt lớn hơn, nhưng
chỉ trong vòng 30 giây, hiệu quả phản ứng giảm giảm xuống nhanh chóng do số lượng
bong bóng khí hình thành đọng trên bề mặt điện cực, ngăn cản dòng chảy của nước.
Giải pháp phủ điện cực tốt nhất là lớp sợi nhỏ, phân tách được
nhiều hydro hơn so với lớp dây nano dù diện tích bề mặt thấp hơn đến 25%.
Trong quá trình thử nghiệm kéo dài 100 giờ, điện cực lớp sợi
micro (microfiber) sản xuất khí hydro với mật độ đến 25.000 milliamp trên mỗi
cm vuông, có năng suất gấp 50 lần so với thiết bị điện phân kiềm thông thường.
Giáo sư Wiley nhấn mạnh, các nhà sản xuất thiết bị điện phân
nước thương mại nên cải thiện cấu trúc điện cực máy dựa trên những kết quả
nghiên cứu của nhóm nghiên cứu trường đại học Duke, nhằm tăng sản lượng hydro
phân tách được và giảm giá thành sản phẩm.
Nếu thiết bị phân
tách nước hiện nay có thể tăng đáng kể tốc độ sản xuất hydro, chi phí hydro được
sản xuất từ nước có thể giảm xuống, trong những nghiên cứu tương lại biến hydro
thành giải pháp lưu trữ năng lượng sạch tiềm năng, có giá cả phù hợp cho môi
trường xanh, sạch tương lai.