Nhóm nghiên cứu Đại học California, Berkeley Mỹ phát triển thành công phương pháp mới in 3D vi cấu trúc thủy tinh nhanh hơn, có chất lượng quang học và độ bền cao, linh hoạt trong thiết kế.
Mô hình vi ống ba cạnh in 3D. Ảnh động Adam Lau / Berkeley
Engineering
Nhóm nghiên cứu Đại học California, Berkeley phối hợp với
các nhà khoa học từ Đại học Albert Ludwig ở Freiburg Đức thành công mở rộng khả
năng của quy trình in 3D, được phát triển cách đây 3 năm – kỹ thuật in thạch bản
trục điện toán (CAL) để in các chi tiết nhỏ bằng thủy tinh. Nhóm nghiên cứu đặt
tên cho hệ thống mới này là “micro-CAL”. Công trình nghiên cứu khoa học, được
công bố trên tạp chí Science
Kính là vật liệu được ưa thích để tạo ra các vật thể cực nhỏ
phức tạp, như thấu kính trong các máy ảnh nhỏ gọn, chất lượng cao, sử dụng
trong điện thoại thông minh và ống nội soi, các thiết bị vi lỏng được sử dụng để
phân tích hoặc xử lý một lượng rất nhỏ chất lỏng. Nhưng các phương pháp chế tác
hiện nay chậm, tốn kém và hạn chế về khả năng đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của
ngành.
Quy trình CAL về cơ bản khác với quy trình sản xuất in 3D
công nghiệp, tạo ra các vật thể từ những lớp vật liệu mỏng. Kỹ thuật này cần
nhiều thời gian và kết cấu bề mặt thô ráp. Kỹ thuật CAL in 3D toàn bộ đối tượng
đồng thời. Các nhà khoa học sử dụng tia laser chiếu các mẫu ánh sáng vào một khối
vật liệu nhạy sáng đang quay, tạo ra một phần vật liệu được chiếu ánh sáng 3D, phần
này đông đặc lại theo hình dạng mong muốn. Bản chất 1 lớp của quy trình CAL cho
phép bề mặt vật thể nhẵn và có dạng hình học phức tạp.
Nghiên cứu mới của nhóm nhà khoa học vượt qua ranh giới của
CAL để chứng minh khả năng in các vật thể kích thước siêu nhỏ trong cấu trúc thủy
tinh. Nhà nghiên cứu chính Hayden Taylor, GS kỹ thuật cơ khí tại UC Berkeley
cho biết, khi giới thiệu phương pháp này lần đầu tiên năm 2019, CAL có thể in
các vật thể bằng polymer với những kích thước nhỏ hơn 1/3 mm. Sử dụng kỹ thuật micro-CAL,
có thể in các vật thể bằng polyme với kích thước nhỏ hơn khoảng 20 phần triệu
mét, hay khoảng ¼ đường kính sợi tóc con người. Nhóm nghiên cứu cũng chứng minh
được, phương pháp này có thể in không chỉ bằng polyme mà cả thủy tinh, kích thước
giảm xuống khoảng 50 phần triệu mét.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học UC Berkeley phát triển một
phương pháp mới để in 3D các cấu trúc vi thủy tinh phức tạp như cấu trúc mạng tứ
diện. Nguồn: Ảnh Adam Lau / UC Berkeley
Để in thủy tinh, nhóm nghiên cứu của GS Taylor hợp tác với
các nhà khoa học từ Đại học Albert Ludwig của Freiburg, đã phát triển một loại
vật liệu nhựa đặc biệt chứa các hạt thủy tinh nano, bao quanh bằng chất lỏng kết
dính nhạy sáng. Những phép chiếu ánh sáng laser kỹ thuật số từ máy in làm rắn
chắc chất kết dính, sau đó nhóm nghiên cứu đốt nóng vật thể in, loại bỏ chất kết
dính, hợp nhất các hạt nano lại thành một vật thể rắn bằng thủy tinh nguyên chất.
Yếu tố quan trọng trong công trình nghiên cứu là chất kết
dính có chỉ số gần tương tự như chỉ số khúc xạ thủy tinh, do đó ánh sáng đi qua
vật liệu không bị tán xạ. Quy trình in CAL và vật liệu, được phát triển bằng Glassomer
[GmbH] là một kết hợp hoàn hảo.
Ảnh hiển vi điện tử quét của mạng tinh thể lập phương có
kích thước thành hạt tinh thể 20 micromet. Ảnh Joseph Toombs / UC Berkeley
Nhóm nghiên cứu, chạy thử nghiệm và xác định, những vật thể
thủy tinh in CAL có độ bền cao hơn so với những vật thể được chế tạo bằng quy
trình in lớp thông thường. Các vật thể thủy tinh có xu hướng dễ vỡ khi có nhiều
lỗ hổng hoặc vết nứt, bề mặt thô ráp. Do đó, in bằng kỹ thuật CAL tạo ra những
vật thể có bề mặt mịn hơn là công nghệ có tiềm năng.
Sinh viên trường UC Berkeley Joseph Toombs sử dụng nhíp gắp
cấu trúc mạng tinh thể thủy tinh được tạo ra bằng kỹ thuật in 3D mới. Nguồn: Ảnh
Adam Lau / UC Berkeley
Phương pháp in 3D CAL cung cấp cho các nhà sản xuất khả năng
chế tạo các vật kính cực nhỏ đáp ứng những yêu cầu khắt khe về hình học, kích
thước cũng như các tính chất quang học và cơ học của các nhà sản xuất linh kiện
quang học hiển vi, máy ảnh compact, kính tai nghe thực tế ảo, kính hiển vi tiên
tiến và rất nhiều công cụ khoa học khác. Khả năng chế tạo những thành phần này
nhanh và linh hoạt về hình học giúp phát triển các chức năng mới của thiết bị,
giảm giá thành sản phẩm.