Nhiệt lượng khổng lồ nằm ở hàng chục dặm dưới chân chúng ta, được gọi là năng lượng địa nhiệt sâu, có thể cung cấp thừa đủ năng lượng sạch, tái tạo đáp ứng nhu cầu của toàn thế giới.
Khi thế giới chuyển đổi từ nhiên liệu hóa thạch sang những
nguồn năng lượng thân thiện với môi trường, điều quan trọng là thế giới phải có
đủ năng lượng xanh để thực hiện chuyển đổi này. Theo một nhà thuyết trình tại
buổi khai mạc Sự kiện Quản lý Hành tinh (Planetary Stewardship Event) ở Boston,
câu trả lời có thể là năng lượng địa nhiệt.
Năng lượng địa nhiệt sâu. Video Quaise Energy.
Được sắp xếp thời gian phù hợp với Hội nghị Biến đổi Khí hậu
của Liên Hợp Quốc, sự kiện này được tổ chức nhằm “làm nổi bật những ý tưởng khả
thi cho hoạt động của nhân loại nhằm đạt được mối quan hệ bền vững với các hệ
thống tự nhiên của hành tinh.”
Tiềm năng của năng lượng địa nhiệt sâu
Matt Houde, nhà đồng sáng lập công ty Quaise Energy, có trụ
sở tại Massachusetts, một trong 100 diễn giả tại sự kiện ở Boston cho biết: “Tổng
hàm lượng năng lượng địa nhiệt vượt quá nhu cầu năng lượng hàng năm của thế giới
theo hệ số hàng tỷ. Vì vậy, khai thác một phần nhỏ trong số đó là quá đủ để đáp
ứng nhu cầu năng lượng của nhân loại trong tương lai gần,”.
Hiện tại, chúng ta không khoan đủ sâu để mở ra nguồn năng lượng
này. Ông Houde giải thích: “Nếu chúng ta có thể khoan xuống 10 dặm, có thể gặp
nhiệt độ có hiệu quả kinh tế ở khắp mọi nơi. Nếu sâu hơn nữa, chúng ta có thể đạt
đến nhiệt độ mà nước được bơm đến địa điểm này sẽ trở nên siêu tới hạn.
“Điều này tạo ra một
pha khí tương tự hơi nước, cho phép sản xuất điện năng công suất lớn trên mỗi
giếng, tạo ra năng lượng địa nhiệt, có hiệu quả cao về chi phí.”
Lỗ sâu nhất đã được khoan cho đến nay là lỗ khoan Kola của
Liên Xô đạt được 7,6 dặm. Phải mất 20 năm để hoàn thành vì những thiết bị thông
thường như mũi khoan cơ học không thể chịu được các điều kiện khắc nghiệt ở độ
sâu đó và bị hỏng. Ông Houde nhấn mạnh: “Chúng ta sẽ cần hàng trăm, nếu không
muốn nói là hàng nghìn lỗ khoan Kola nếu chúng ta muốn mở rộng quy mô địa nhiệt
đến công suất cần thiết cho nhân loại.
Khoan bằng năng lượng vi sóng
Công ty khoan Quaise tại Massachusetts đang nghiên cứu phát
triển công nghệ, có khả năng vượt qua những thách thức này. Hệ thống khoan sẽ
làm nổ đá bằng vi sóng, cho phép khoan những lỗ sâu nhất trên Trái đất.
Công ty đang hướng tới việc thay thế các mũi khoan thông thường
bằng mũi năng lượng sóng milimet. Những sóng này là họ hàng với vi sóng mà con
người sử dụng để nấu thức ăn, làm tan chảy và bay hơi đá để tạo ra những lỗ sâu
hơn và đạt đến độ sâu cung cấp năng lượng địa nhiệt.
Sơ đồ kỹ thuật khoan sâu Quaise sử dụng năng lượng vi sóng. Ảnh Geoengineering.
Trong quá trình phát triển công nghệ, các nhà khoa học đã chứng
minh được, sóng milimet có thể khoan lỗ trên đá bazan. Hơn nữa, cỗ máy con quay
hồi chuyển (gyrotron) tạo ra năng lượng sóng milimet đã được sử dụng trong khoảng
70 năm qua trong nghiên cứu phản ứng tổng hợp hạt nhân để tạo ra nguồn năng lượng
sạch.
Thiết bị tạo vi sóng Con quay hồi chuyển ( gyrotron) tại Cơ sở Nghiên cứu nhiệt hạch Wendelstein 7-X của Viện Vật lý Plasma Max Planck ở Greifswald, Đức. Ảnh Geoengineering.
Kỹ thuật Quaise cũng tận dụng những công nghệ khoan thông
thường được phát triển bởi ngành dầu khí. Công ty sẽ tích hợp những kỹ thuật
này để khoan xuyên qua các lớp bề mặt đến đá nền, nơi sóng milimet có thể dễ
dàng xuyên qua.
Ông Houde giải thích, sóng milimet “là lý tưởng đối với đá kết
tinh, nóng, cứng nằm sâu bên dưới mà phương pháp khoan thông thường gặp trở ngại
lớn. Sóng milimet không hiệu quả đối với đá mềm gần bề mặt hơn, nhưng đó là những
lớp địa tầng mà hoạt động khoan thông thường đạt hiệu quả cao.”
Những thách thức phải được giải quyết để hiện thực hóa công
nghệ Quaise
Những thách thức đối với phương pháp sử dụng vi sóng vẫn tồn
tải, như sự hiểu biết về tính chất của đá ở độ sâu lớn. Hơn nữa, cần phải phát
triển chuỗi cung ứng con quay hồi chuyển và đường truyền sóng, mang năng lượng
trong lỗ khoan.
Thiết bị con quay hồi chuyển hiện được tối ưu hóa cho những
dự án chuyên dụng, một lần trong lĩnh vực nghiên cứu nhiệt hạch. Đối với các ứng
dụng năng lượng địa nhiệt sâu, thiết bị phải được sản xuất với số lượng lớn, công
suất lớn và độ tin cậy cao trong môi trường thực địa.
Ngoài ra còn có những thách thức kỹ thuật phải được giải quyết.
ông Houde cho biết: “Điều quan trọng nhất trong những khó khăn là làm thế nào để
đảm bảo loại bỏ hoàn toàn tro bụi trong quy trình khoan và vận chuyển tro bụi
đó lên khỏi lỗ khoan trên một quãng đường dài nhiều dặm?”
Trong phòng thí nghiệm tại, các kỹ sư đã trình diễn công nghệ
này, cách khoan một lỗ trên đá bazan với tỷ lệ 2 phía là 1:1. Quaise cũng mở rộng
kết quả bằng cách tăng mật độ năng lượng của chùm vi sóng và độ sâu của lỗ lên
hệ số mười để đạt được tỷ lệ hai phía tấm đá là 10:1. Đồng thời, công ty đang
xây dựng các nguyên mẫu giàn khoan vi sóng milimet, có thể triển khai tại hiện
trường đầu tiên.
Ông Houde nói: “Kế hoạch hiện tại của công ty là khoan những
lỗ đầu tiên trên thực địa trong vài năm tới. Trong khi tiếp tục phát triển công
nghệ cho phép khoan sâu hơn, công ty cũng sẽ nghiên cứu các dự án năng lượng địa
nhiệt thương mại đầu tiên ở những nơi địa tầng nông hơn và tạo ra các sản phẩm
thuyết phục.”