Ở Việt Nam hàng năm có tới 8.000 lễ hội diễn ra trên khắp các vùng miền đất nước. Cùng với đó cả nước có hơn 44.000 địa danh, danh thắng và di tích lịch sử, trong đó hơn một nửa là nơi có thể khai thác mô hình du lịch tâm linh.
Chúng ta ai cũng có thể biết đến các địa điểm du lịch tâm linh nổi tiếng cả nước như: Đền Hùng (Phú Thọ), Yên Tử (Quảng Ninh), chùa Bái Đính (Ninh Bình), Phủ Dầy (Nam Định), chùa Từ Đàm (Huế), Tam Chúc (Hà Nam)…và rất nhiều địa danh khác nữa. Điều đáng nói là các khu di tích, thắng cảnh, tập trung chủ yếu là đền đài, chùa chiền, miếu mạo, lăng tẩm, khu tưởng niệm, trong đó hơn 3.000 địa danh được xếp hạng di tích quốc gia.
Đi kèm di tích là các hoạt động văn hóa, tín ngưỡng, như thờ cúng tổ tiên, dòng tộc, tri ân anh dùng dân tộc, danh nhân, hoặc lễ bái, cầu xin những điều tốt lành cho con người, cho quốc thái dân an. Chính kho tàng văn hóa và tín ngưỡng phong phú trên đã tạo nên cốt cách và bản sắc của dân tộc Việt Nam, và trở thành những điểm du lịch hấp dẫn du khách, trong đó chủ yếu là du lịch tâm linh. Như thế để thấy rằng du lịch tâm linh ở nước ta có tiềm năng rất lớn, vấn đề là làm sao để biết khai thác hiệu quả, đúng quy định mà không làm mất đi bản sắc tốt đẹp vốn có của nó bởi vấn đề tâm linh luôn là một lĩnh vực rất nhạy cảm và nhiều khi dễ bị lợi dụng vào các mục đích xấu.
Khái niệm du lịch tâm linh đã có từ lâu trên thế giới, nhưng ở nước ta mới chỉ được nói đến trong khoảng hơn chục năm qua khi mà điều kiện kinh tế, xã hội phát triển, đời sống vật chất và tinh thần con người được nâng lên. Đặc biệt là sau sự kiện Việt Nam lần đầu tiên tổ chức Hội nghị quốc tế về du lịch tâm linh tại Ninh Bình (tháng 11-2013) theo sáng kiến của Tổng Thư ký Tổ chức Du lịch thế giới (UNWTO) Taleb Rifai thì du lịch tâm linh ở nước ta càng nở rộ. Theo đánh giá của UNWTO, du lịch tâm linh là loại hình du lịch mà Việt Nam là nước có thế mạnh về lĩnh vực này.
Vậy phải hiểu thế nào là du lịch tâm linh? Có thể nói một cách ngắn gọn du lịch tâm linh là một loại hình du lịch lấy yếu tố tâm linh là mục tiêu để thỏa mãn nhu cầu từ con người. Vì thế du lịch tâm linh thường diễn ra các hoạt động khai thác giá trị văn hóa phi vật thể về tín ngưỡng, tôn giáo để thỏa mãn nhu cầu tâm linh của con người, mang đến cho du khách những cảm xúc thiêng liêng, sâu thẳm trong tâm hồn.
Du lịch tâm linh là chuyến du lịch khám phá thế giới tâm linh để trở về với thế giới nội tâm, lắng nghe và tìm về những điều tốt đẹp.Đi sâu vào cuộc hành trình tâm linh này, người ta có thể rũ bỏ những ưu phiền, khổ đau để có được một tâm hồn tự do và hạnh phúc, lòng ngập tràn niềm vui sống cùng tình yêu thương bao la, vô tận… Về bản chất, tâm linh gắn liền và biểu hiện những cái thiêng liêng, cao cả, siêu việt trong đời sống tinh thần, đời sống sinh hoạt xã hội của con người, nhất là những cư dân vùng Á đông nói chung trong đó ở Việt Namvăn hóa tâm linh đã tạo nên chiều sâu, sức sống cho nền văn hóa cộng đồng, dân tộc.
Trong xu thế phát triển chung của ngành du lịch, ở nước ta những năm gần đây, loại hình du lịch tâm linh với các tour hành hương về đất tổ, tham quan vùng văn hóa với các di sản, di tích văn hóa độc đáo, thăm viếng các cơ sở thờ tự, di tích, danh thắng… được tổ chức ngày càng nhiều. Du lịch tâm linh đáp ứng nhu cầu thư giãn, thưởng ngoạn, tìm hiểu phong tục, tập quán, tín ngưỡng của du khách.
Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể trải dài trên khắp đất nước, vừa mang tính thiêng liêng, vừa mang tính thẩm mỹ, chính là đối tượng tìm hiểu của du khách bốn phương. Họ kết hợp giữa du lịch và hành hương để đến với những địa điểm vừa có ý nghĩa tôn giáo và tín ngưỡng, vừa có cảnh đẹp. Du khách không chỉ tìm hiểu được những thông tin về cội nguồn lịch sử, cội nguồn văn hóa, tôn giáo, tín ngưỡng bản địa, mà còn được gắn bó, giao tiếp, ứng xử cùng nhau trong môi trường đậm đặc chất thiêng. Như vậy, du khách được đáp ứng cả nhu cầu du lịch và nhu cầu tâm linh.
Đây là những môi trường đặc thù cả về vật thể và phi vật thể, vừa hấp dẫn, vừa tạo niềm tin cho du khách. Họ không chỉ thưởng ngoạn, tham quan, khám phá hay chiêm bái, cầu nguyện… mà còn tăng cường được sợi dây gắn kết con người với thiên nhiên cũng như gia tăng niềm tin, nâng cao đời sống tâm hồn. Với ý nghĩa đó du lịch tâm linh là điều không thể thiếu được ở một đất nước hơn 90 triệu dân với nhiều tín ngưỡng, tôn giáo khác nhau mang đậm văn hóa tâm linh như ở Việt Nam ta.
Vậy những cái được mà du lịch tâm linh mang lại là gì? Câu trả lời là nó mang lại cả giá trị vật chất và tinh thần cho con người. Đó là điều không thể phủ nhận. Trong những năm gần đây, các điểm di tích lịch sử văn hoá, đền, chùa nổi tiếng của các vùng miền trên cả nước lại thu hút một lượng lớn du khách thập phương hành hương về chiêm bái, lễ Phật, cầu bình an cho một năm mới. Loại hình du lịch văn hoá tâm linh đang ngày càng phát triển, có sức hấp dẫn đặc biệt với du khách, đặc biệt, tăng mạnh vào những dịp đầu năm, các điểm du lịch tâm linh thu hút rất đông khách hành hương.
Bên cạnh những cơ sở tôn giáo, tín ngưỡng nổi tiếng, thì lễ hội cổ truyền là địa điểm và môi trường đáp ứng tốt nhất cho việc khai mở, phát triển các tuyến, tour du lịch tâm linh. Hơn nữa, thực tế cho thấy, dù lễ hội hòa đồng, gắn kết với các ditích, danh thắng, di sản tôn giáo, tín ngưỡng ở cấp độ hay quy mô nào, cũng là những lễ hội vừa thiêng liêng, nghiêm cẩn, vừa thư giãn, vui vẻ. Đó là về mặt tinh thần, còn về lợi ích vật chất thì sao?
Chúng ta đều hiểu rằng khi các khu du lịch tâm linh mở ra thường kéo theo bao nhiêu thứ dịch vụ khác mang lại những khoản thu nhập không hề nhỏ, thậm chí là khổng lồ. Đó là tiền bán vé vào tham quan, là dịch vụ ăn uống, nghỉ ngơi, phí trông giữ xe cộ, bán hàng lưu niệm, tiền công đức…Với những khu du lịch có quy mô lớn được đầu tư và tổ chức một cách bài bản như Bái Đính, Đền Hùng, Tam Chúc, Hương sơn, Yên Tử…thì số tiền thu được ở đây là rất lớn.
Được biết chỉ trong một mùa lễ hội, số “tiền lẻ” mà khách thập phương để lại ở chùa Hương đem gửi ở chi nhánh ngân hàng huyện Mỹ Đức đã lên tới 1.200 bao tải, với tổng trị giá khoảng 22 tỷ đồng tiền công đức.
Ở Yên Tử, năm cao nhất thu tới 31 tỷ đồng. Còn ở Bái Đính nếu như năm 2005, toàn tỉnh đón 1 triệu lượt khách du lịch với doanh thu 60 tỷ đồng, thì đến năm 2012 địa phương đã đón trên 3,7 triệu lượt khách và doanh thu trên 800 tỷ đồng. Năm 2013, đón khoảng 5 triệu lượt khách, trong đó 2/3 là khách tham gia hành trình du lịch tâm linh, doanh thu dự kiến đạt khoảng gần 1.000 tỷ đồng. Một vài con số như thế cho thấy kinh doanh từ du lịch tâm linh mang lại lợi ích kinh tế đáng kể.
Và một sự kiện rất đáng nói đến vừa diễn ra trong năm 2019 này là chúng ta vừa tổ chức rất thành công Đại lễ Vesak Liên hợp quốc tại chùa Tam Chúc (Hà Nam). Với chủ đề “Cách tiếp cận của Phật giáo về sự lãnh đạo toàn cầu và trách nhiệm cùng chia sẻ vì xã hội bền vững”,
Đại lễ Vesak Liên hợp quốc đã trở thành ngày hội văn hoá chan hoà tinh thần đoàn kết quốc tế, nêu cao thông điệp hoà bình, đoàn kết và yêu thương trên nền tảng tư tưởng của Đức Phật. Đại lễ Vesak năm 2019 được tổ chức trọng thể, trang nghiêm với sự tham gia của trên 3.000 đại biểu đến từ 106 quốc gia và vùng lãnh thổ cùng hàng chục nghìn tăng, ni, phật tử và những người có tín ngưỡng Phật giáo khắp nơi đã thành công viên mãn. Trong những ngày ấy, những tinh hoa về tư tưởng, trí tuệ và lòng từ bi theo tinh thần Phật giáo đã kết nối bầu bạn khắp nơi hội tụ về đây trong tinh thần đoàn kết, hữu nghị giữa những người có chung tâm nguyện cùng nhau thúc đẩy tinh thần khoan dung, hoà hợp để góp phần xây dựng một thế giới hoà bình và hạnh phúc.
Vì thế có thể coi đây là một cuộc du lịch tâm linh đầy ý nghĩa, góp phần tích cực trong việc quảng bá hình ảnh về đất nước Việt Nam tươi đẹp, con người Việt Nam thân thiện mến khách đến bè bạn quốc tế. Không dừng ở đó, du lịch tâm linh còn góp phần tạo nhiều công ăn, việc làm cho người lao động, cải thiện đời sống của người dân cả về phương diện vật chất lẫn tinh thần. Kết quả này thể hiện sự đúng đắn chủ trương của nhiều địa phương hiện nay, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi, hải đảo.
Chúng ta thấy rất rõ điều này khi cách đây hơn 10 năm, Bái Đính là một vùng đất chưa được du khách biết đến, cuộc sống của người dân nơi đây khó khăn, kham khổ. Thế nhưng, từ khi dự án xây dựng chùa Bái Đính đi vào hoạt động, đời sống xã hội từng bước được cải thiện, người dân Ninh Bình đã cùng chính quyền địa phương tích cực hơn trong việc tham gia gìn giữ bảo vệ các giá trị văn hóa tâm linh, công trình kiến trúc tôn giáo, để vừa phục vụ cho đời sống tinh thần của cộng đồng và vừa phát triển du lịch.
Với định hướng phát triển du lịch tâm linh theo hướng khai thác những giá trị nổi trội về cảnh quan thiên nhiên, văn hóa truyền thống gắn với quy hoạch liên kết vùng, du lịch tâm linh trở thành động lực thu hút khách, thúc đẩy hoạt động dịch vụ du lịch khác, tạo sự đa dạng cho du lịch Việt Nam, đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội theo hướng bền vững.
Nhưng bên cạnh những cái được mà du lịch tâm linh mang lại thì đâu đó vẫn còn nhiều cái chưa được, thậm chí cả cái mất khiến chúng ta không khỏi quan tâm, lo lắng. Trước hết phải nói tới tình trạng thương mại hóa diễn ra ở nhiều nơi dưới danh nghĩ du lịch tâm linh. Có lẽ những nhà quản lý hay các chủ đầu tư các khu du lịch tâm linh này nhận thấy đây là hình thức làm kinh tế mới, tạo ra siêu lợi nhuận dựa trên tín ngưỡng của người dân để rồi đưa ra các mức thu tiền một cách thoải mái, tùy tiện gọi là vé vào tham quan.
Ví dụ như du khách đến Yên Tử đi từ hướng Uông Bí Quảng Ninh phải mua vé 40.000 đồng/lần/người lớn và 20.000 đồng/lần/trẻ em (được biết hình thức thu này sẽ kéo dài trong 10 năm). Thấy đây là nguồn lợi lớn nên ngay lập tức tỉnh hàng xóm Bắc Giang năm nay cũng khai mở tuần văn hóa du lịch “khám phá vùng đất thiêng Tây Yên Tử” với lễ cung tiến tượng Phật hoàng Trần Nhân Tông , tượng Pháp Loa và Huyền Quang hoành tráng không kém và đương nhiên ai đi theo hướng này cũng phải mua vé vào cửa với mức giá như trên mặc dù quãng đường chỉ bằng 1/4 đi từ hướng đông.
Thế nghĩa là đi hướng nào cũng phải mua vé vào chùa. Vì vậy có người đã gọi đây là “BOT cổng chùa”. Cũng từ chuyện đầu tư xây chùa, các khu du lịch tâm linh để thu tiền nên trong dư luận gần đây nổi lên nghi vấn liệu có hay không việc cán bộ, công chức góp tiên xây chùa để trục lợi.
Và việc này đã được một số đại biểu Quốc hội nêu ý kiến chất vấn tại kỳ họp thứ 7 khóa XIV vừa qua và đích danh Bộ trưởng Bộ Văn hóa Thể thao và Du lịch cùng Bộ trưởng Bộ Nội vụ phải trả lời trước Quốc hội. Và câu trả lời của hai vị Bộ trưởng là“hiện chưa phát hiện trường hợp cán bộ, công chức nào góp tiền xây dựng chùa để kinh doanh trục lợi”.
Như thế là vấn đề vẫn đang còn bỏ ngỏ vì “chưa phát hiện ra trường hợp nào”, nhưng rõ ràng dư luận thì vẫn còn nhiều quan ngại về vấn đề này. Thương mại hóa còn thể hiện ngay chính nơi diễn ra các hoạt động tâm linh cụ thể là tại các đình chùa, miếu mạo, di tích, đền đài… người ta đặt quá nhiều hòm công đức với mục đích để thu thật nhiều tiền, chứ không chỉ đơn thuần là tiền giọt dầu như trước đây các cụ nhà ta vẫn làm. Và điều đáng nói nữa là tất cả các khoản thu được ấy (số tiền này rất lớn) thì những ai được biết và được sử dụng chi tiêu như thế nào thì không ai rõ.
Ngay các nhà quản lý các địa phương là lãnh đạo Sở VHTT&DL cũng không nắm được mà chỉ tin vào “lòng thành” của các phật tử, các nhà đầu tư mà thôi. Đôi khi người ta còn “ngại” nói đến chuyện tiền nong ở chốn linh thiêng và cho rằng nếu mình không biết thì thần phật sẽ biết …Thế nên chúng ta chưa thể giám sát, minh bạch hóa các khoản thu chi và chính sách thuế với các doanh nghiệp bỏ tiền đầu tư các khu du lịch tâm linh, và việc thất thoát, trốn tránh nghĩa vụ đóng góp ngân sách cho địa phương là điều dễ xảy ra. Và đã có chuyện những người xấu, tham lam đã lợi dụng biển thủ cả tiền công đức ở các khu di tích, đình chùa mà các phương tiện thông tin đã từng nói tới.
Cũng vì xem việc đầu tư vào du lịch tâm linh là siêu lợi nhuận nên có thể thấy rằng những năm gần đây có một “làn sóng” làm du lịch tâm linh. Từ những nguồn thu dễ nhìn thấy là lý do khiến nhiều đối tượng đầu cơ, ồ ạt xây dựng các dự án du lịch tâm linh để trục lợi, thậm chí dựng lên những công trình giả để thu lời bất chính.
Chúng ta vẫn chưa quên việc lực lượng chức năng tại địa bàn thắng cảnh chùa Hương đã phải ra quân để giải tỏa hơn 40 chùa giả, động rởm được dựng lên trái phép trong khu vực cách đây nhiều năm. Có thời gian người dân ở TP Sầm Sơn (Thanh Hóa) giật mình khi phát hiện khu vực núi Trường Lệ xuất hiện một chùa lạ xây dựng trái phép trên mảnh đất của tư gia tự đặt tên là "Linh Sơn Thượng".
Hay gần đây là việc xây dựng pho tượng bà Chúa Xứ trên Núi Sam, tỉnh An Giang, đã gây bức xúc dư luận… Bên cạnh những dự án du lịch tâm linh có mức đầu tư hàng nghìn tỷ như dự án hồ Núi Cốc có mức đầu tư tới 15.000 tỷ đồng, thì trên thực tế, còn có công trình phục vụ du lịch tâm linh chủ yếu chỉ gây ấn tượng mạnh ở cái tên huyền bí, yếu tố lạ, tính hoành tráng, độ choáng ngợp hơn là giá trị tinh thần mang ý nghĩa tâm linh. Nhiều nơi chỉ vì “con gà tức nhau tiếng gáy” nên làm cái gì cũng phải nhất, chùa phải to nhất, tượng Phật phải lớn nhất, tháp phải cao nhất để không bị kém cạnh ai, để có kỷ lục Guinness mà chẳng làm rạng danh gì cho đất nước trong thời công nghệ 4.0 này.
Nếu tình trạng này còn tiếp diễn, hậu quả sẽ không chỉ là nguy cơ phá vỡ cảnh quan vốn hài hòa của di tích, mà còn góp phần tạo nên tình trạng ngày càng thương mại hóa đời sống tâm linh, xúc phạm niềm tin tín ngưỡng của cộng đồng. Trong khi đất nước còn nghèo, thu nhập của người dân còn thấp, trường học, bệnh viện còn thiếu mà cứ lo xây chùa, nhà thờ cho thật hoành tráng có nên không? Nếu cứ nhìn cảnh các cháu học sinh ở vùng sâu, vùng xa, khu vực miền núi phải ngồi học trong những túp lều xiêu vẹo, dột nát trong cái rét căm căm của mùa đông chúng ta sẽ nghĩ gì.
Cha ông ta đã từng nhắc nhở: “Dù xây chín bậc phù đồ-không bằng làm phúc cứu cho một người”. Đầu tư quá mức cho việc xây dựng chùa chiền, đúc chuông, tô tượng, chi phí lớn cho lễ vật, công đức sẽ khiến nguồn lực đầu tư cho an sinh xã hội bị giảm sút. Đức Phật từ bi vui sao được khi mà chùa được xây quá hoành tráng, tốn kém, trong khi bệnh viện lại nhếch nhách, tồi tàn, người bệnh nghèo vật vã, đau đớn, trường học cho trẻ em xập xệ, đường sá của dân gập ghềnh, hiểm nguy.
Gắn với các điểm du lịch tâm linh đương nhiên có các hoạt động mang tính tâm linh. Các hoạt động ấy nếu đúng với tâm thức của người Việt, đảm bảo thuần phong mỹ tục và đúng các quy định hiện hành thì cần được tôn trọng. Nhưng trong thực tế nhiều khi nó bị biến tướng, bị lợi dụng vào các mục đích xấu mang tính mê tín dị đoan, làm vẩn đục không khí vốn trong lành, thanh tịnh, linh thiêng nơi cửa Phật, đền đài, danh thắng. Từ đây những hành vi biến tướng được nhân rộng, trở nên phổ biến, tạo cơ hội, điều kiện để một số tổ chức, cá nhân biến một số cơ sở thờ tự thành địa chỉ "buôn thần, bán thánh", lợi dụng lòng tin của người dân để lừa bịp nhằm trục lợi, thu lời.
Theo quy luật có "cầu" thì mới có "cung" nên không khó để nhận diện hiện tượng trục lợi tâm linh hiện nay còn xuất phát từ một bộ phận không nhỏ du khách, khi tìm đến các điểm di tích linh thiêng chỉ nhằm mục đích cầu xin danh lợi, từ đó xuất hiện những biểu hiện mê tín dị đoan, buôn thần bán thánh. Ví như đền Bà Chúa Kho (Bắc Ninh) vốn ra đời để tưởng nhớ công đức của một người phụ nữ đã khéo tích trữ lương thực, trông nom kho lương triều đình nhưng giờ đây, mỗi ngày có không ít người tới đền vay vốn, mong được thành "con nợ" của Bà Chúa Kho để làm ăn có lộc.
Hay đền Ông Hoàng Bảy (Lào Cai) vốn là nơi thờ thần vệ quốc - vị anh hùng đã đánh tan giặc phương Bắc, bảo vệ dân làng,song không biết từ lúc nào đã trở thành nơi để không ít người dâng lễ cầu lộc cho hoạt động lô đề, buôn bán hàng lậu, làm ăn phi pháp... Nghi lễ khai ấn ở đền Trần (Nam Ðịnh) từ trước đây có ý để nhà vua nhắc nhở quần thần phải chu toàn bổn phận của mình trước dân chúng nhưng với nhiều người thì "ấn đền Trần" bị biến thành lá bùa phù trợ cho đường quan lộ.
Người ta chen chúc, giẫm đạp, tranh cướp nhau để có được một chiếc ấn tượng trưng, để yên trí rằng mình đã được phù hộ độ trì.Người ta đã từng chạy chức chạy quyền ở nhiều cửa rồi nay lại còn tiếp tục chạy nơi cửa thánh. Không gian văn hóa, sự thiêng liêng của lễ hội và không gian thờ tự cũng vì thế bị biến dạng, méo mó. Những sự việc diễn ra gần đây tại chùa Ba Vàng (Quảng Ninh) đã gây nhiều bức xúc trong dư luận xã hội. Nếu nói về lịch sử chùa này trước đây cũng không có gì đặc biệt, cũng chẳng có “điềm thiêng dấu lạ” gì.
Nhưng từ khi được đầu tư xây mới lại nó trở nên hấp dẫn mọi người có lẽ không chỉ vì quy mô, kiến trúc hoành tráng, lại tọa lạc ở vị trí đắc địa, du khách đến đây cũng không chỉ để vãn cảnh tham quan vẻ đẹp mà rất nhiều người còn bị cuốn hút vào một hoạt động “tâm linh” đầy ma lực, đậm chất mê tín dị đoan, lừa bịp bởi cái gọi là “cúng oan gia trái chủ” để thu tiền những ai nhẹ dạ cả tin.
Vị sư chùa này đã từng là cán bộ giảng dạy của một trường đại học danh tiếng ở Hà Nội mà vẫn để cho một người như bà Yến trình độ văn hóa lớp 5, không hiểu gì về Phật pháp thường xuyên đăng đàn thuyết giảng những điều hết sức xằng bậy, trái với giáo lý nhà Phật. Họ làm như vậy tất cả chỉ vì tiền. Thế mới biết vì tiền và để kiếm thật nhiều tiền người ta đã bất chấp tất cả, sẵn sàng biến nơi cửa Phật thành nơi buôn thần bán thánh. Và mỗi khi lễ hội mở ra là các hoạt động ăn theo trong đó các trò mê tín, dị đoan lại nở rộ, nơi nào cũng có bói toán, rút thẻ, xem tướng số… và biết bao tệ nạn khác như cờ bạc, gây gổ, cướp giật, chém giết nhau cũng vẫn xảy ra.
Những tiêu cực hạn chế nói trên có phần do sự lỏng lẻo trong tổ chức quản lý của các cơ quan chức năng cũng như chính quyền các cấp. Đôi khi vì quá coi trọng lợi ích kinh tế mà bỏ qua các khâu giám sát, kiểm tra đôn đốc khiến việc tổ chức còn tự phát, tùy tiện, lộn xộn. Trong bối cảnh làng quê vốn chứa đựng không ít những hủ tục truyền lại từ xưa, việc tổ chức quản lý lễ hội một cách lỏng lẻo, tự phát dễ tạo điều kiện cho những cái xấu xuất hiện làm mất đi vẻ đẹp thuần khiết của lễ hội.
Một vài hiện tượng lệch chuẩn nêu trên thực ra chưa phản ánh đầy đủ so với những gì đang diễn ra trong thực tiễn của hoạt động du lịch tâm linh trên khắp mọi miền đất nước.
Nhưng dù sao đó cũng là những mặt trái của hoạt động này cần được quan tâm, chấn chỉnh để du lịch tâm linh thực sự vừa thiêng liêng, vừa lành mạnh, hấp dẫn du khách và mang lại nhiều hiệu quả đích thực, góp phần phát triển kinh tế xã hội của nước nhà.
Để chấn chỉnh, từng bước khắc phục tình trạng nói trên thiết nghĩ giải pháp mang tính căn cơ vẫn phải là tập trung tuyên truyền nhằm thay đổi nhận thức của công chúng khi tham gia thực hành tín ngưỡng, cũng như tăng cường tri thức, hiểu biết của người dân địa phương và khách du lịch về văn hóa tâm linh, cung cách ứng xử khi tham gia các chuyến du lịch tâm linh. Đối với các khu du lịch tâm linh, các cơ quan chức năng cần sớm có tổng kết, đánh giá khách quan, khoa học dưới nhiều góc độ nhằm định hướng kế hoạch đầu tư trong tương lai một cách cẩn trọng, bền vững, không để xảy ra những hệ quả đáng tiếc.
Công tác quản lý của các cơ quan có thẩm quyền cần chặt chẽ nhất là trong việc cấp phép đầu tư xây dựng cần bảo đảm tính công khai, minh bạch, tôn trọng giá trị lịch sử và văn hóa. Mặt khác cũng cần xử lý một cách nghiêm khắc những sai phạm trong tất cả các khâu từ việc xây dựng các khu du lịch tâm linh, đến việc tổ chức, điều hànhmọi hoạt động trong lĩnh vực này, đặc biệt không để xảy ra tình trạng lợi dụng yếu tố tâm linh để trục lợi.
Hãy làm cho du lịch tâm linh thực sự là sự trở về với cội nguồn dân tộc, để cho mọi du khách luôn tìm thấy sự thư thái, bình yên trong tâm hồn và từ đó biết trân trọng, giữ gìn, phát huy những giá trị văn hóa, tinh thần đẹp đẽ của con người Việt Nam qua mọi thời đại. Xin mượn câu nói của Giáo sư Ngô Đức Thịnh - Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Bảo tồn tín ngưỡng Việt Nam để kết thúc bài viết này: “Làm tốt du lịch thì chúng ta vừa thu được khách, thu được tiền, đồng thời có điều kiện để làm văn hóa. Nếu không làm tốt thì chính du lịch tiêu diệt văn hóa”.
Ngọc Hà
Theo Tạp chí Công tác Tôn giáo số 7/2019