Nghiên cứu nhằm phân tích những tiềm năng du lịch homestay ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang; từ đó đưa ra một số định hướng về mô hình homestay và giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn để phát triển du lịch homestay tại địa bàn.
NGHIÊN CỨU PHÁT TRIỂN DU LỊCH HOMESTAY VÙNG VEN BIỂN HUYỆN
AN BIÊN, TỈNH KIÊN GIANG
Nguyễn Thanh Tùng; Trương Trí Thông
Khoa Du lịch, Trường Cao đẳng Kiên Giang
Chịu trách nhiệm: Nguyễn Thanh Tùng (email:
nttung@kgc.edu.vn)
Ngày nhận bài: 14/03/2019 Ngày nhận bài sửa: 18/05/2019 Ngày
duyệt đăng: 29/08/2019
ABSTRACT
Homestay is a type of sustainable tourism that brings many
benefits as creating new experiences for tourists, ensuring livelihood and
income for the locals. Therefore, homestay tourism is a new and promising trend
in many countries around the world.
An Bien district (Kien Giang province) has lots of
potentials to develop homestay tourism with the typical characteristics of a
coastal area. However, the strengths in the area only exist in the form of
potential, not yet be exploited in association with tourism to generate income
for the people and develop the local economy.
Therefore, this study is aimed to analyze the potentials of
homestay tourism in An Bien district, Kien Giang province; thereby providing
some orientations for homestay models and solutions to overcome shortcomings to
develop homestay tourism in the area effectively as well as to improve the
quality of people's lives and to strengthen rural construction towards
sustainable development.
TÓM TẮT
Du lịch homestay là loại hình du lịch góp phần phát triển bền
vững bởi nhiều lợi ích mang lại; vừa tạo sự thu hút, trải nghiệm mới đối với du
khách, vừa đảm bảo sinh kế và thu nhập cho người dân địa phương. Vì vậy, du lịch
homestay đang là xu thế phát triển ở nhiều nước trên thế giới.
Huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang có nhiều điều kiện phát triển
du lịch homestay với những văn hóa và trải nghiệm đặc trưng của vùng ven biển.
Thế nhưng, các thế mạnh ở địa bàn chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chưa được
khai thác gắn kết với du lịch để tạo thu nhập cho người dân và phát triển kinh
tế địa phương.
Do đó, nghiên cứu này phân tích những tiềm năng du lịch
homestay ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang; từ đó đưa ra một số định hướng về mô
hình homestay và giải pháp nhằm khắc phục những khó khăn để phát triển du lịch
homestay tại địa bàn một cách hiệu quả, cải thiện chất lượng cuộc sống người
dân, đẩy mạnh xây dựng nông thôn mới và hướng tới sự phát triển bền vững.
Trích dẫn: Nguyễn
Thanh Tùng và Trương Trí Thông, 2019. Nghiên cứu phát triển du lịch homestay
vùng ven biển huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần
Thơ. 55(4C): 101-112.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong thời kỳ đô thị hóa, công nghiệp hóa ở các nước phát
triển hiện nay đã làm cho tâm lý và nhu cầu du lịch của con người dần trở nên
thay đổi. Họ muốn thoát khỏi nơi khói bụi, ồn ào, đông đúc của cuộc sống hàng
ngày mà tìm về những nơi bình bị, có khí hậu trong lành, yên ả, cùng với các
giá trị văn hóa truyền thống của chốn thôn quê; đặc biệt, họ muốn lưu lại nhà của
người dân địa phương để cùng nhau tìm hiểu về văn hóa, lối sống cũng như trải
nghiệm những công việc của cộng đồng nơi đây.
Từ nhu cầu và thị hiếu đó của du khách, một số nước trên thế
giới đã bắt đầu phát triển một loại hình du lịch mới - du lịch homestay.
Du lịch homestay tại Việt Nam tiến triển khá mạnh mẽ, thật sự
thu hút đông đảo lượng khách quốc tế đến với Việt Nam, chính điều này đã góp phần
nâng cao mức sống của người dân bản địa và mang lại lợi ích kinh tế khá cao cho
ngành du lịch của đất nước (Minh Anh và Hải Yến, 2008).
Loại hình du lịch này tập trung phát triển nhiều ở vùng Tây
Bắc, Tây Nguyên và đồng bằng sông Cửu Long ở nước ta; nhất là vùng đồng bằng
sông Cửu Long như ở Bến Tre, Tiền Giang, Cần Thơ, Vĩnh Long, Kiên Giang,… Trong
đó, huyện An Biên (Kiên Giang) là địa bàn có nhiều tiềm năng phát triển loại
hình du lịch homestay bởi cảnh quan thiên nhiên, giá trị văn hóa truyền thống,
có nhiều địa điểm tham quan liên kết xung quanh,… đặc biệt, tại đây là vùng ven
biển nên có các bãi bồi, vuông nuôi hải sản (tôm, cua, các bãi bồi ven biển
nuôi sò huyết, vẹm, nghêu,...) khá lạ và thú vị khi trở thành hoạt động trải
nghiệm cho du khách.
Đây chính là những yếu tố để phát triển du lịch homestay nói
riêng và du lịch nói chung, tạo sự thu hút du khách trong lẫn ngoài nước. Thế
nhưng, các thế mạnh này chỉ tồn tại dưới dạng tiềm năng, chưa có chiến lược,
quy hoạch bài bản và cụ thể dẫn đến chưa thu hút, hấp dẫn du khách đến tham
quan cũng như lưu trú, chưa tạo được thu nhập cho người dân nói riêng và kinh tế
địa phương nói chung nhờ vào du lịch.
Chính vì vậy, nghiên cứu nhằm đánh giá tiềm năng du lịch
homestay ở huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang; từ đó đưa ra một số định hướng về mô
hình homestay và giải pháp phát triển du lịch homestay tại địa bàn nghiên cứu một
cách hiệu quả, một mặt góp phần thỏa mãn nhu cầu du lịch của du khách, một mặt
cải thiện cuộc sống người dân địa phương cũng như phát triển du lịch tỉnh Kiên
Giang theo hướng bền vững.
2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 Phương pháp thu thập và phân tích dữ liệu thứ cấp
Dữ liệu thứ cấp được thu thập từ tạp chí, sách, báo,
internet,… về các vấn đề liên quan đến du lịch homestay. Từ những dữ liệu thu
thập được, tác giả tiến hành phân tích, đánh giá và tổng hợp nhằm phục vụ vấn đề
nghiên cứu.
2.2 Phương pháp thu
thập và xử lý dữ liệu sơ cấp
Dữ liệu sơ cấp được thu thập bằng bảng hỏi. Do ở đây loại
hình du lịch homestay chưa hình thành nên đối tượng khảo sát là các hộ dân địa
phương có nuôi sò, vẹm tại các bãi bồi hoặc có nuôi tôm, cua,… một ngành nghề gắn
với cư dân ven biển có thể khai thác thành hoạt động trải nghiệm cho du khách
sau này. Số lượng hộ dân được khảo sát là 45 hộ tại 3 xã Tây Yên, Nam Yên và
Nam Thái A. Đây là ba địa điểm có số hộ dân có nghề nuôi hải sản nhiều nhất ở
huyện An Biên. Bên cạnh đó, nghiên cứu còn phỏng vấn du khách nhằm khảo sát nhu
cầu du lịch homestay cũng như các yếu tố cần có để xây dựng homestay một cách
hiệu quả và hấp dẫn. Hair et al. (1998) đề nghị cỡ mẫu cho một nghiên cứu phải ≥100,
do đó nghiên cứu phỏng vấn 126 du khách (60 khách nội địa, 66 khách quốc tế) tại
một số điểm du lịch trên địa bàn tỉnh Kiên Giang bằng kỹ thuật chọn mẫu thuận
tiện.
Dữ liệu nghiên cứu được thu thập trong tháng 1 năm 2019. Sau
khi dữ liệu được thu thập sẽ tiến hành xử lý và phân tích bằng phần mềm SPSS
20.0 với phương pháp được sử dụng là thống kê mô tả dưới dạng tỷ lệ phần trăm
và giá trị trung bình.
2.3 Phương pháp khảo sát thực địa
Trong quá trình nghiên cứu, nhiều lần khảo sát thực địa được
thực hiện tại An Biên. Qua đó, nghiên cứu đánh giá được tiềm năng, thực trạng
phát triển du lịch homestay tại An Biên; từ đó đề xuất các định hướng, giải
pháp được hợp lý và thiết thực hơn.
2.4 Phương pháp tham vấn
Ngoài ra, nghiên cứu còn phỏng vấn sâu cán bộ Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Kiên Giang, người dân, cán bộ quản lý địa phương và một số
công ty lữ hành trên địa bàn tỉnh Kiên Giang để lấy ý kiến phục vụ vấn đề
nghiên cứu.
3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1. Tiềm năng phát triển du lịch homestay ở huyện An Biên,
tỉnh Kiên Giang
3.1.1 Khái quát về huyện An Biên
An Biên có diện tích hơn 400km2, gồm 1 thị trấn và 8 xã, địa
giới huyện An Biên ở phía đông giáp huyện Gò Quao và huyện Vĩnh Thuận, phía tây
giáp huyện Kiên Hải và vịnh Rạch Giá, phía nam giáp huyện An Minh, phía bắc
giáp huyện Châu Thanh và vịnh Rạch Giá. Hệ thống giao thông thuận lợi, nằm ở cửa
ngõ đi vào vùng bán đảo Cà Mau, trải dài trên trục quốc lộ 63, có đường hành
lang ven biển Tây đi qua, sông Cái Lớn chảy dọc phía Đông tạo điều kiện thuận lợi
phát triển kinh tế của huyện và khả năng tiếp cận của du khách trong hoạt động
du lịch. Kinh tế dịch vụ có bước phát triển khá nhanh, đóng góp tích cực vào
phát triển nền kinh tế của huyện, đáp ứng tốt hơn các nhu cầu sản xuất kinh
doanh và đời sống nhân dân. Đối với lĩnh vực dịch vụ du lịch có gia tăng về
doanh thu dịch vụ lưu trú và ăn uống, các cơ sở kinh doanh thương mại và khách
sạn nhà hàng.
An Biên, một trong ba huyện ở Kiên Giang là địa giới của rừng
U Minh Thượng. Rừng U Minh Thượng có giá trị đa dạng sinh học quan trọng, sinh
cảnh phong phú với 32 loài thú, 187 loài chim, 34 loài bò sát và lưỡng cư, 37
loài cá, 203 loài côn trùng và nhiều loài thủy sinh vật phân bố ở các độ sâu
khác nhau trong hệ sinh thái; không những thế, tại đây là nơi trú ngụ của một
trong những khu hệ chim phong phú nhất của vùng châu thổ sông Cửu Long và là một
trong ba địa điểm trên thế giới được biết đến có sự hiện diện của quần thể rái
cá lông mũi (Trần Ngọc Cường và Nguyễn Tự Nam, 2016).
Do đó, rừng U Minh Thượng có nhiều lợi thế và điều kiện
trong việc hấp dẫn du khách trong lẫn ngoài nước thông qua các loại hình du lịch
như du lịch sinh thái, du lịch khám phá, du lịch nghiên cứu.
Ngoài ra, huyện An Biên có giá trị văn hóa truyền thống độc
đáo và lâu đời, trên toàn huyện có 30 di sản văn hóa phi vật thể, trong đó: 8
di sản lễ hội dân gian, 1 di sản nghệ thuật trình diễn dân gian, 1 di sản ngữ
văn dân gian, 6 di sản trí thức dân gian, 5 di sản phong tục tập quán và tín
ngưỡng, 9 di sản nghề thủ công truyền thống (Nguyễn Diệp Mai, 2017). Những di sản
này là tiềm năng về tài nguyên du lịch văn hóa rất lớn trong phục vụ phát triển
du lịch, giúp cho du khách tìm hiểu thông tin, trải nghiệm và nghiên cứu.
3.1.2 Tiềm năng phát
triển du lịch homestay ở huyện An Biên
Du lịch homestay là hoạt động du lịch mà du khách sẽ lưu trú
tại nhà của người dân địa phương nơi tham quan và cùng sinh hoạt với các thành
viên trong gia đình đó; loại hình lưu trú du lịch homestay sẽ giúp cho du khách
khám phá, trải nghiệm và tìm hiểu về văn hóa và phong tục tập quán bản địa khác
với cuộc sống hàng ngày của mình. Do đó, khi phát triển loại hình du lịch
homestay, ngoài việc chú trọng đến địa điểm nhà của người dân để làm nơi lưu
trú còn phải quan tâm khai thác các nguồn tài nguyên du lịch để phục vụ nhu cầu
trải nghiệm và tìm hiểu văn hóa địa phương. Huyện An Biên có điều kiện và tiềm
năng phát triển du lịch homestay rất lớn về vị trí địa lý, điều kiện tự nhiên
và tài nguyên du lịch nhân văn.
Vị trí địa lý
Huyện An Biên nằm ở một vị trí giao thông thuận lợi, giáp
các huyện trong tỉnh cũng giúp cho việc tiếp cận của du khách trở nên dễ dàng,
với vị trí thuận lợi này cũng góp phần gắn kết với các điểm tham quan khác xung
quanh huyện tạo thành hệ thống tuyến điểm tham quan khá đa dạng và hấp dẫn.
Phía đông giáp huyện Gò Quao có thể liên kết tham quan các nghề thủ công truyền
thống như đan lát, lục bình, chế biến bánh phồng tôm hay tham quan chùa Cà
Nhung (Sariganga) - một ngôi chùa Khmer lâu đời có kiến trúc đặc sắc và ấn tượng.
Phía nam giáp huyện An Minh và U Minh thượng, là địa giới của
Vườn Quốc gia U Minh Thượng được UNESCO công nhận là khu Ramsar của thế giới với
vẻ đẹp hoang sơ, bình dị; tại đây du khách có thể trải nghiệm, khám phá và tham
quan hệ sinh thái rừng nhiệt đới ngập nước thuộc dạng hiếm trên thế giới. Bên cạnh
đó, phía Bắc là huyện Châu Thành có làng nghề truyền thống dệt chiếu Tà Niên
cùng với các vườn khóm Tắc Cậu, một đặc sản của huyện Châu thành nói riêng và tỉnh
Kiên Giang nói chung, có thể trở thành điểm tham quan và trải nghiệm khi gắn kết
liên tuyến trong tour du lịch homestay.
Hình 1: Bản đồ huyện An Biên
Nguồn: Ủy ban nhân dân huyện An Biên
- Điều kiện tự nhiên
Do An Biên là một huyện giáp biển của tỉnh Kiên Giang nên có
khí hậu mát mẻ, cảnh quan xung quanh còn hoang sơ mang yếu tố của một vùng quê
yên bình, rất thích hợp phát triển du lịch phục vụ du khách, nhất là các loại
hình du lịch liên quan đến du lịch sinh thái, du lịch nông thôn, du lịch cộng đồng
và homestay. Ngoài ra, do nằm ven biển nên An Biên có bãi bồi ven biển khá lớn,
được xem là tiềm năng để phát triển ngành kinh tế biển giúp cải thiện đời sống
người dân thông qua nuôi trồng và đánh bắt hải sản. Trong đó, xã Tây Yên, Nam
Yên và Nam Thái A đang có những bãi bồi ven biển rộng lớn hoang sơ, gắn với
phát triển cánh đồng mẫu lớn, nuôi vẹm xanh, sò huyết, tôm, cua và các loại thủy,
hải sản khác.
Hình 2: Dãy rừng phòng hộ nguyên sinh ở huyện An Biên
Nguồn: Ảnh chụp thực tế từ nhóm nghiên cứu, 2019
Hình 3: Khu vực nuôi vẹm xanh, nghêu và sò huyết ở huyện An
Biên
Nguồn: Ảnh chụp thực tế từ nhóm nghiên cứu, 2019
Nhìn chung, những bãi bồi nuôi thủy, hải sản của các hộ dân ở
địa phương có thể khai thác thành hoạt động du lịch phục vụ du khách về mặt tìm
hiểu đời sống của người dân địa phương, cũng như văn hóa cư dân vùng ven biển
và các hoạt động trải nghiệm. Những hoạt động này tạo nên nét đặc trưng không
trùng lắp với nơi khác, du khách cũng tham gia cùng người dân một ngày làm nông
dân nhưng không phải là tát mương bắt cá, trồng lúa hay thu hoạch trái cây mà đặc
trưng là “một ngày làm ngư dân” với các hoạt động hàng ngày của ngư dân vùng biển
như: mò cua, tôm, “đổ lú”, mò sò tại bãi bồi, câu cá thòi lòi, câu ba khía, cào
nghêu, bắt sò huyết, vẹm,… Không những vậy, ven biển xung quanh địa bàn nghiên
cứu có các dãy rừng phòng hộ nguyên sinh tạo khung cảnh đặc trưng vùng ven biển
ở đồng bằng sông Cửu Long có thể cùng chủ nhà dùng ghe xuồng, vỏ lãi để tham
quan. Đây được xem là tiềm năng bổ trợ cho sự phát triển của du lịch homestay tại
địa bàn nghiên cứu rất lớn.
Hình 4: Hoạt động bởi xuồng và thu hoạch cua cùng người dân
địa phương
Nguồn: Ảnh chụp thực tế từ nhóm nghiên cứu, 2019
- Nghề thủ công truyền thống
Nghề và làng nghề thủ công truyền thống được xem là một “bảo
tàng sống”, nơi lưu giữ kho tàng di sản văn hóa vật thể và phi vật thể vừa
phong phú, đa dạng, vừa sinh động, góp phần làm nên hệ giá trị văn hóa dân tộc;
đây chính là yếu tố thu hút sự quan tâm của du khách trong các chuyến du lịch
(Nguyễn Thị Lan Hương, 2016).
Các nghề thủ công truyền thống đều có đặc điểm chung là gắn
liền với nông nghiệp, có lịch sử lâu đời, sản phẩm đa dạng, mang đậm nét văn
hóa tinh thần dân tộc (Trương Trí Thông và Lý Mỷ Tiên, 2018). Do đó, tổ chức Du
lịch Thế giới tin rằng sự kết hợp giữa du lịch và nghề thủ công là tiềm năng lớn
trong sự phát triển du lịch ở hầu hết các quốc gia và địa phương (UNWTO, 2006;
trích bởi Trương Trí Thông và Lý Mỷ Tiên, 2018).
Tại ba xã Tây Yên, Nam Yên và Nam Thái A được lựa chọn khảo
sát để phát triển du lịch homestay có các nghề thủ công truyền thống lâu đời, rất
có tiềm năng khai thác phục vụ du lịch, trong đó xã Tây Yên có nghề sơ chế dừa,
xã Nam Yên có nghề chằm lá và xã Nam Thái A có nghề nuôi sò huyết - tôm - cua.
Các nghề thủ công này sẽ góp phần tạo nên sự thú vị trong du lịch homestay của
mình, du khách có thể trực tiếp xem và tham gia vào một số công đoạn sản xuất sản
phẩm đặc trưng của các nghề thủ công này.
Hình 5: Nghề nuôi sò huyết - tôm – cua ở xã Nam Thái A, huyện
An Biên
Nguồn: Ảnh chụp thực tế từ nhóm nghiên cứu, 2019
- Lễ hội và phong tục
tập quán của người Khmer
Lễ hội truyền thống và phong tục tập quán là một trong những
nguồn tài nguyên du lịch nhân văn có giá trị độc đáo, mang đậm bản sắc văn hóa
dân tộc của một vùng, một địa phương. Du lịch lễ hội thỏa mãn được các nhu cầu
tìm đến cái mới, cái khác biệt so với nơi ở thường ngày của du khách, khách du
lịch không chỉ tham quan, tìm hiểu lễ hội mà còn có thể tham gia vào các hoạt động
lễ hội đó; đồng thời, hoạt động du lịch lễ hội góp phần giới thiệu giá trị lễ hội
của đất nước, của một vùng, của một địa phương (Phạm Thị Vui, 2012).
Đặc biệt, lễ hội và phong tục tập quán của đồng bảo Khmer ở
huyện An Biên rất độc đáo và phong phú, chủ yếu tập trung ở xã Tây Yên bao gồm
lễ Chôl Chnăm Thmây, lễ Sen Đôn ta, lễ Tắm tượng Phật, lễ hội cầu an, nghi thức
cúng đắp núi cát, tập quán đi tu trả hiếu của người Khmer, lễ kiết giới Sima,…
Những lễ hội và phong tục tập quan của người Khmer có những sắc thái riêng biệt
với những đồng bào khác; chính vì vậy, đây được xem là tiềm năng rất quan trọng
trong việc gắn kết tuyến điểm tham quan cũng như bổ trợ cho hoạt động cho du
khách khi phát triển du lịch homestay tại đây. Những lễ hội và phong tục này nếu
được khai thác phục vụ du lịch sẽ giúp cho du khách có những hiểu biết và trải
nghiệm mới về người Khmer ở địa bàn An Biên.
Hình 6: Lễ hội kết giới Sima
Nguồn: Internet
- Văn hóa ẩm thực
Trong quá trình hình thành và phát triển của mỗi dân tộc
cũng như tộc người đều có một phong cách ẩm thực riêng phù hợp với đặc điểm tự
nhiên và văn hóa của dân tộc mình; văn hóa ẩm thực là những gì liên quan đến ăn
uống nhưng mang nét đặc trưng của mỗi cộng đồng dân cư khác nhau, thể hiện cách
chế biến và thưởng thức của món ăn khác nhau (Phạm Thị Vui, 2012).
Nhìn chung, do vị trí địa lý cùng với điều kiện tự nhiên quy
định nên văn hóa ẩm thực của cư dân vùng ven biển An Biên chủ yếu là các loại hải
sản như tôm, cua, ốc, sò huyết,… du khách đến đây có thể tự tay trải nghiệm
cách đánh bắt các loại hải sản này sau đó cùng người dân địa phương chế biến,
như vậy vừa thể hiện tính trải nghiệm mới lạ vừa thưởng thức được các loại hải
sản tự tay mình đánh bắt được thể hiện tính chất của du lịc homestay.
Bên cạnh đó, ở địa bàn ba xã Tây Yên, Nam Yên và Nam Thái A
là địa bàn của đồng bào Khmer sinh sống. Do đó, khi thực hiện chuyến du lịch
homestay tại đây ngoài thưởng thức các loại hải sản thì du khách còn có thể thưởng
thức và trải nghiệm thêm các món ăn của người Khmer với sự phong phú và mang bản
sắc riêng như mắm bò hóc, cốm dẹp, xiầm lo cà cô, canh xiêm lo,… (Phạm Thị Vui,
2012).
Tóm lại, tại huyện An Biên và xung quanh địa bàn đều có tiềm
năng du lịch rất lớn, có rất nhiều tài nguyên du lịch bổ trợ trong sự phát triển
du lịch homestay. Song song đó, huyện An Biên còn nằm ở một vị trí khá thuận lợi
trong việc gắn kết với các điểm du lịch tạo thành hệ thống tuyến điểm tham quan
khá đa dạng và hấp dẫn nếu được sự quan tâm và khai thác của ngành du lịch tỉnh
Kiên Giang cũng như các công ty lữ hành trong và ngoài tỉnh.
3.2 Đánh giá của du khách và người dân về du lịch homestay ở
An Biên
3.2.1 Đánh giá của du
khách về du lịch homestay
Để khảo sát về điều kiện phát triển du lịch homestay và nhu
cầu của du khách về loại hình du lịch này, nghiên cứu khảo sát ý kiến của 126
du khách tại một số điểm du lịch ở Kiên Giang. Đối tượng được phỏng vấn là những
du khách đã tham gia và trải nghiệm homestay. Qua những thông tin phản hồi từ
du khách, nghiên cứu đưa ra những định hướng và giải pháp đối với việc phát triển
du lịch homestay ở An Biên phù hợp với nhu cầu của du khách.
a. Hình thức lưu trú
Hiện nay, trong hoạt động du lịch có nhiều hình thức lưu trú
khác nhau như khách sạn, homestay, nhà nghỉ,… Qua kết quả khảo sát ở Hình 7,
hình thức lưu trú được du khách nội địa lựa chọn nhiều nhất là homestay
(40,0%), kế đến là khách sạn (31,7%). Còn đối với khách quốc tế thì ngược lại,
loại hình lưu trú họ lựa chọn nhiều nhất là khách sạn (45,0%), homestay và nhà
nghỉ cũng được lựa chọn nhưng tương đối ít (22,5% và 20,0%).
Sở dĩ, hình thức lưu trú khách sạn được lựa chọn nhiều là vì
đây là loại lưu trú phổ biến, thường gặp nhất, khách sạn còn được lựa chọn bởi
sự đầy đủ tiện nghi, cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật được đầu tư tốt,… Tuy
nhiên, một số du khách lại thích sự bình dị, gần gũi và trải nghiệm với cuộc sống
của người dân bản địa, chính vì vậy homestay là sự lựa chọn của họ.
Qua đó, ta thấy du lịch homestay đang trở thành thị hiếu của
nhiều du khách nội địa và quốc tế, do đó một số các cơ quan chức năng liên qua
đến lĩnh vực du lịch ở địa phương cần chú ý đến hình thức lưu trú này trong hoạt
động kinh doanh và phát triển du lịch nhằm đáp ứng nhu cầu của du khách.
Hình 7: Hình thức lưu trú của du khách (%)
Nguồn: Khảo sát trực tiếp từ du khách năm 2019
b. Điều kiện phát triển du lịch homestay
Theo đánh giá của du khách nội địa cho rằng, để phát triển
loại hình du lịch homestay, điều kiện cần có nhất là sự hiếu khách của cộng đồng
địa phương (68,35 %), tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng (63,3%) và hệ
thống quốc phòng, an ninh đảm bảo (55,0%). Còn đối với khách du lịch quốc tế,
tài nguyên thiên nhiên phong phú và đa dạng (62,1%) và sự hiếu khách của cộng đồng
địa phương (50,0%) là những điều kiện để phát triển du lịch homestay (Bảng 1).
Ngoài ra, sự hoàn thiện của cơ sở vật chất, tài nguyên nhân
văn đặc sắc và có giá trị, các chương trình du lịch có chất lượng và các điều
kiện khách cũng là những điều kiện cần thiết của du lịch homestay khi phát triển
nhưng chiếm tỷ lệ không đáng kể (Bảng 1).
Qua đó, ta có thể thấy đánh giá của du khách nội địa và quốc
tế có sự tương đồng lẫn nhau về điều kiện phát triển của loại hình du lịch
homestay này. Chính vì vậy, khi phát triển du lịch homestay, chính quyền địa
phương, cơ quan ban ngành, các nhà nghiên cứu cũng như các công ty lữ hành và hộ
dân kinh doanh homestay cần chú ý đến các điều kiện trên để có chính sách quy
hoạch, đầu tư và xây dựng hiệu quả.
Bảng 1: Điều kiện
phát triển du lịch homestay (%)
Điều kiện phát triển du
lịch homestay
|
Du khách nội địa
|
Du khách quốc tế
|
Tài nguyên thiên nhiên
phong phú và đa dạng
|
63,3
|
62,1
|
Tài nguyên nhân văn đặc sắc
và có giá trị
|
38,3
|
21,2
|
Hệ thống quốc phòng, an
ninh đảm bảo
|
55,0
|
27,3
|
Các chương trình du lịch
có chất lượng
|
30,0
|
25,8
|
Sự hiếu khách của cộng đồng
địa phương
|
68,3
|
50,0
|
Sự hoàn thiện của cơ sở vật
chất
|
36,7
|
28,8
|
Khác
|
10,0
|
7,6
|
Nguồn: Khảo sát trực tiếp từ du khách năm 2019
c. Hoạt động trải nghiệm
Về các hoạt động vui chơi giải trí cũng như trải nghiệm là
nhu cầu quan trọng khi đi du lịch của con người, yếu tố này giúp cho sản phẩm
du lịch mà du khách sử dụng đạt h0iệu quả và chất lượng cao. Các hoạt động mà
du khách nội địa lẫn du khách quốc tế muốn trải nghiệm nhiều nhất khi tham gia
du lịch homestay là khám phá và học hỏi văn hóa, phong tục tập quán của cư dân
bản địa (khách nội địa là 66,7%; khách quốc tế là 68,2%). Ăn uống tại nhà dân,
vui chơi giải trí và lưu trú tại nhà dân cũng là những hoạt động trải nghiệm mà
du khách nội địa đánh giá khá cao.
Còn đối với du khách quốc tế, hoạt động lưu trú và ăn uống tại
nhà dân cũng chiếm vị trí quan trọng đáng kể (Hình 8). Qua đó, chính quyền địa
phương và các cơ quan chức năng liên quan đến hoạt động du lịch cũng như các
công ty lữ hành cần chú ý đến vấn đề này khi phát triển loại hình du lịch
homestay để phục vụ du khách một cách tốt nhất, nhằm đem lại sự hài lòng và
lòng trung thành đối với họ.
Hình 8: Hoạt động trải
nghiệm của du khách (%)
Nguồn: Khảo sát trực tiếp từ du khách năm 2019
d. Nhu cầu về du lịch homestay
Khảo sát nhu cầu là điều rất cần thiết đối với ngành kinh tế
nói chung và ngành du lịch nói riêng, bởi xác định được nhu cầu của khách hàng
ta sẽ biết được họ cần gì và mong muốn gì để đầu tư và phát triển sản phẩm phù
hợp. Nhu cầu của từng loại hình du lịch cũng như từng loại khách là có sự khác
biệt; nhìn chung đối với du lịch homestay, du khách nội địa quan tâm hầu hết
các yếu tố liên quan đến du lịch homestay như thái độ phục vụ thân thiện và vui
vẻ của người dân; sự thân thiện của cộng đồng địa phương; sự phong phú và thu
hút của nguồn tài nguyên thiên nhiên, không gian homestay,… (Bảng 2).
Còn đối với khách du lịch quốc tế cho rằng, các yếu tố cần
thiết phải có ở du lịch homestay là thái độ phục vụ thân thiện và vui vẻ của
người dân, sự phong phú và thu hút của nguồn tài nguyên thiên nhiên; các yếu tố
khác cũng được du khách quốc tế đề cập đến nhưng không đáng kể (Bảng 2).
Bảng 2: Nhu cầu của du khách về du lịch homestay*
STT
|
Yếu tố liên quan đến du lịch homestay
|
Du khách nội địa
|
Du khách quốc tế
|
1
|
Sự đầy đủ của các vật dụng - trang thiết bị
|
3,68
|
3,08
|
2
|
Sự sạch sẽ của các vật
dụng, trang thiết bị
|
3,60
|
3,12
|
3
|
Sự hấp dẫn và lôi cuốn
của các hoạt động trải nghiệm
|
3,70
|
3,14
|
4
|
Được thưởng thức đặc sản
địa phương
|
3,97
|
3,33
|
5
|
Đảm bảo an toàn, vệ sinh
sức khỏe
|
3,85
|
3,32
|
6
|
Thái độ phục vụ thân
thiện và vui vẻ của người dân
|
4,17
|
3,61
|
7
|
Kiến thức và nghiệp vụ
của người dân tham gia dịch vụ homestay
|
3,75
|
3,23
|
8
|
Sự thân thiện của cộng
đồng địa phương
|
4,10
|
3,39
|
9
|
Sự phong phú và thu hút
của nguồn tài nguyên thiên nhiên
|
4,03
|
3,41
|
10
|
Không gian homestay thích
hợp
|
4,00
|
3,35
|
11
|
Sự hấp dẫn và đặc trưng
văn hóa địa phương và nguồn tài nguyên nhân văn
|
3,95
|
3,35
|
Nguồn: Khảo sát trực tiếp từ du khách năm 2019
*Ghi chú: 1,00 – 1,80 = rất không cần thiết; 1,81 – 2,60 =
không cần thiết; 2,61 – 3,40 = trung lập; 3,41 – 4,20 = cần thiết; 4,21 – 5,00
= rất cần thiết
3.2.2 Đánh giá của người
dân về du lịch homestay ở An Biên
a. Nhận thức của người dân về du lịch homestay
Qua khảo sát thực tế 45 hộ dân ở địa bàn nghiên cứu cho thấy,
có sự chênh lệch giữa đối tượng biết và không biết đến loại hình du lịch
homestay. Trong 45 hộ dân, có đến 53,0% hộ dân biết về loại hình du lịch
homestay; còn lại 47,0% là nhóm hộ dân không biết đến loại hình này. Tuy nhiên,
đối với nhóm hộ dân biết đến du lịch homestay này chưa thật sự hiểu sâu sắc, họ
chỉ biết thông qua việc nghe truyền miệng từ người thân, bạn bè hoặc xem qua
các kênh thông tin đại chúng.
Thông qua chuyến khảo sát điền dã, hầu hết các hộ dân ở đây
chưa có kinh doanh tham gia vào hoạt động kinh doanh du lịch nói chung và du lịch
homestay nói riêng. Thế nhưng, khi trao đổi trực tiếp những thông tin về loại
hình du lịch này và qua khảo sát bằng bảng hỏi thì có 77,8% hộ dân muốn tham
gia vào hoạt động du lịch homestay tại địa phương, 11,1% không tham gia và chưa
biết là 11,1% trong tương lai. Những hộ dân không muốn tham gia và chưa biết
tham gia hay không vào hoạt động homestay chủ yếu với lý do còn e ngại, muốn tập
trung vào sản xuất nông nghiệp, đánh bắt thủy hải sản,…
b. Hoạt động tham gia du lịch homestay của người dân
Theo những hộ dân mong muốn tham gia vào kinh doanh loại
hình du lịch homestay, hoạt động mà họ muốn tham gia cũng như cung ứng là tổ chức
và hướng dẫn các hoạt động cho khách trải nghiệm (51,1%), giới thiệu các món ăn
ngon và hấp dẫn khi đến địa phương (40,0%), hướng dẫn khách tham quan các địa
điểm du lịch nổi tiếng tại địa phương (33,3%).
Ngoài ra, một số hộ dân lựa chọn dịch vụ chuẩn bị phòng ngủ,
các tiện nghi và phục vụ bữa ăn (22,2%), tổ chức các buổi hướng dẫn tham quan
(15,6 %), giới thiệu và hướng dẫn cho khách nhập gia (17,8%) và các dịch vụ
khác (11,1%). Qua đó ta thấy rằng, một số hộ dân lựa chọn các dịch vụ cung cấp
liên quan đến việc lưu trú homestay. Tuy nhiên, các hộ dân chỉ cung cấp được dịch
vụ ăn uống, vui chơi giải trí nhưng dịch vụ lưu trú thì các hộ dân vẫn chưa sẵn
sàng, vẫn còn bỡ ngỡ, e dè về việc cho khách lưu trú qua đêm tại nhà mình.
c. Khó khăn trong kinh doanh du lịch homestay
Trong quá trình kinh doanh liên quan đến kinh tế nói chung
và kinh doanh du lịch nói riêng luôn luôn gặp không ít những khó khăn, chính vì
vậy theo các hộ dân muốn tham gia hoạt động du lịch homestay trong tương lai
thì khó khăn họ sẽ gặp phải nhiều nhất là kiến thức chuyên môn nghiệp vụ
(71,1%), nguồn vốn đầu tư (53,3%) và năng lực tổ chức các hoạt động du lịch
homestay (48,9%). Các vấn đề khác như điều kiện cơ sở vật chất, khả năng đáp ứng
nhu cầu của du khách, sự phối hợp với các đơn vị,… cũng là khó khăn được đề cập
đến nhưng không cao (Bảng 3).
Bảng 3: Những khó
khăn khi kinh doanh du lịch homestay
STT
|
Khó khăn
|
Tỷ lệ (%)
|
1
|
Kiến thức chuyên môn
nghiệp vụ
|
71,1
|
2
|
Năng lực tổ chức các hoạt
động du lịch homestay
|
48,9
|
3
|
Sự phối hợp giữa cộng
đồng với các công ty du lịch và chính quyền địa phương
|
22,2
|
4
|
Khả năng đáp ứng nhiều
nhu cầu của khách
|
28,9
|
5
|
Nguồn vốn để đầu tư
|
53,3
|
6
|
Điều kiện về cơ sở vật
chất
|
40,0
|
7
|
Khó khăn khác
|
15,6
|
Nguồn: Khảo sát từ hộ dân 2019, n=45
d. Mong muốn cải
thiện của người dân
Theo ý kiến của các hộ dân được khảo sát, phát triển loại
hình du lịch homestay ở huyện An Biên trong tượng lai thì họ mong muốn được cải
thiện các vấn đề về cơ sở hạ tầng và vật chất kỹ thuật (68,9%); chất lượng, kiến
thức và kỹ năng phục vụ về du lịch và ngoại ngữ (51,1%); tình hình an ninh, trật
tự, an toàn giao thông (44,4%) là nhiều nhất (Bảng 4).
Bảng 4: Mong muốn cải thiện của người dân khi phát triển du
lịch homestay
STT
|
Mong muốn cải thiện
|
Tỷ
lệ (%)
|
1
|
Cơ sở hạ tầng và vật chất
kỹ thuật
|
68,9
|
2
|
Tình
hình an ninh, trật tự, an toàn giao thông
|
44,4
|
3
|
Đa
dạng hóa các loại hình dịch vụ
|
31,1
|
4
|
Chất kiến thức và kỹ năng phục vụ về du
lịch và ngoại ngữ
|
51,1
|
5
|
Các
chương trình du lịch homestay
|
31,1
|
6
|
Phát
triển nguồn tài nguyên thiên nhiên tại địa phương
|
20,0
|
7
|
Khác
|
8,9
|
Nguồn: Khảo sát từ hộ dân 2019, n=45
3.3 Định hướng mô hình du lịch homestay ở An Biên
Dựa vào việc đánh giá của du khách và các hộ dân, các chuyên
gia, đại diện các cơ quan quản lý về du lịch và công ty lữ hành tại Kiên Giang,
một số định hướng cho xây dựng mô hình homestay ở huyện An Biên, tỉnh Kiên
Giang được đề xuất như sau:
3.3.1 Các yêu cầu chính đối với lưu trú hometsay
Việc tuân thủ các quy trình sẽ giúp kinh doanh homestay dễ
dàng thành công. Trong quá trình khảo sát thực tế, tại xã Nam Thái A đã có hộ
gia đình Sáu Bé sẵn sàng kinh doanh homestay và đã chuẩn bị khá đầy đủ những thứ
cần thiết. Hộ gia đình này được xem là hộ kinh doanh kiểu mẫu cho các hộ kinh
doanh khác.
Các tiêu chuẩn và yêu cầu chính của một homestay và hộ kinh
doanh homestay cần có bao gồm: tiện nghi phòng ngủ, tiện nghi phòng tắm và kỹ
năng phục vụ. Các tiêu chuẩn và yêu cầu này cần tuân thủ theo tiêu chuẩn quốc
gia của chính phủ Việt Nam (TCVN 2015) về homestay để đảm bảo đúng quy định và
đem lại sự hài lòng cho du khách.
Trong đó, tiện nghi về phòng ngủ và phòng tắm đã được đảm bảo
và sẵn sàng phục vụ khách, thế nhưng kỹ năng phục vụ của hộ này vẫn chưa có. Do
đó, cần có buổi tập huấn về kỹ năng phục vụ khách đối với việc kinh doanh
homestay cho chủ hộ và các thành viên trong gia đình.
Ngoài ra, đối với hộ kinh doanh homestay hiện này đã được hưởng
ứng và có sự tham gia của mọi thành viên trong gia đình điều này góp phần giúp
đạt hiệu quả cao hơn trong việc vận hành và kinh doanh.
Bên cạnh đó, trong thời gian tới, hộ kinh doanh này cần cần
lập danh sách công việc và phải kiểm tra thường xuyên như vệ sinh giường ngủ, vệ
sinh phòng bếp, vệ sinh thùng rác, sự hoạt động của các trang thiết bị,… để đảm
bảo chất lượng phục vụ đối với du khách.
3.3.2 Vệ sinh và chăm
sóc cảnh quan, môi trường
Công việc duy trì diện mạo, tạo ấn tượng đầu tiên rất quan
trọng, vệ sinh tốt cũng giúp ngăn ngừa các côn trùng, vi khuẩn, dị ứng đối với
du khách. Nếu khách du lịch đến và nhận thấy homestay sạch sẽ, thoải mái, chắc
chắn sẽ tạo nên lòng trung thành và khả năng quay lại của du khách, nhất là quảng
bá truyền miệng đến bạn bè và người thân của họ, đây được xem là hình thức quảng
bá hiệu quả nhất.
Chính vì vậy, đối với hộ dân Sáu Bé muốn kinh doanh homestay
nói riêng và những hộ dân khác muốn tham gia vào hoạt động kinh doanh homestay ở
tương lai nói chung thì cần giữ homestay của một cách sạch sẽ và gọn gàng thông
qua việc giữ các vật nuôi bên ngoài, quét dọn thường xuyên, lau chùi khu bếp, đổ
rác hàng ngày,…
Ngoài ra, khuôn viên xung quanh homestay cũng cần giữ cho đường
đi, lối đi và hệ thống thoát nước sạch sẽ, không có lá cây và nước đọng, giữ
cho khu vườn gọn gàng, phát hoang những bụi cỏ và cải tạo lại khu vườn phía sau
nhà, dọn dẹp rác thải và phân động vật, di chuyển những chuồng gà, heo cách xa
khu vực bếp và lưu trú của khách để đảm bảo vấn đề vệ sinh.
3.3.3 Cơ sở vật chất
và kỹ thuật phục vụ lưu trú
Đối với hộ kinh doanh homestay Sáu Bé cần giữ nguyên kiến
trúc ngôi nhà hiện nay vì nó phù hợp với đặc trưng nông thôn, nhà vườn, đặc điểm
văn hóa của từng địa phương; một mặt nếu xây dựng lại sẽ gây mất nét đặc trưng,
gây sự trùng lắp với kiến trúc hiện đại tại các đô thị, một mặt gây tốn chi
phí. Cơ sở vật chất và kỹ thuật ở hộ Sáu Bé tại Nam Thái A hiện nay đã đáp ứng
cơ bản tương đối đầy đủ về sân vườn ở bên ngoài, bên trong có các khu phục vụ
nhu cầu cơ bản của du khách bao gồm: phòng khách, khu phòng ngủ, khu bếp, nhà vệ
sinh và phòng tắm.
Do đó, những hộ dân khác muốn kinh doanh du lịch homestay
trong thời gian tới cần đáp ứng đầy đủ các cơ sở vật chất và kỹ thuật như trên.
Tuy nhiên, việc trang trí trong khuôn viên nhà chưa được chú trọng và bừa bộn,
do đó cần trang trí một số tranh ảnh, các vật dụng đồng quê hay gắn liền với
văn hóa địa phương, giúp du khách cảm thấy gần gũi và hòa mình nét văn hóa của
bản địa. Lưu ý: các vật dụng trang trí không mang yếu tố hiện đại hoặc chạy
theo xu hướng của các khách sạn ở đô thị.
3.3.4 Cơ sở vật chất
phục vụ ăn uống
Cùng với hệ thống cơ sở vật chất - kỹ thuật lưu trú, cơ sở vật
chất - kỹ thuật phục vụ ăn uống là một bộ phận quan trọng trong toàn bộ hệ thống
cơ sở vật chất du lịch. Cơ sở vật chất kỹ thuật của bộ phận này bao gồm các yếu
tố đảm bảo điều kiện tiện nghi cho hoạt động ăn uống của du khách với chức năng
nổi bật là cơ sở vật chất kỹ thuật của khu chế biến và bảo quản thức ăn (bếp)
và cơ sở vật chất kỹ thuật của khu vực phục vụ ăn (phòng ăn).
Đối với vấn đề này, thì hộ kinh doanh homestay hiện nay đã
đáp ứng tương đối đầy đủ ở cả khu vực bếp và phòng ăn, thế nhưng các dụng cụ cần
thiết cho bữa ăn và ghế ngồi còn tương đối ít chưa đảm bảo được số lượng khách
nhiều. Đối với khu vực ăn có thể bày trí một chiếc chiếu và ngồi dùng bữa trên
chiếc chiếu đó, điều này tạo không khí thân quen của chốn đồng quê và tạo sự gần
gũi trong bữa ăn giữa chủ nhà với du khách. Sử dụng các vật dụng dùng trong bữa
ăn gắn liền với đời sống sinh hoạt và thường ngày để tạo sự bình dị và dân dã.
3.3.5 Các dịch vụ vui
chơi giải trí và dịch vụ kèm theo
Ngoài dịch vụ lưu trú và ăn uống, sẽ thật khó để giữ chân du
khách nếu không có các hoạt động khác kèm theo bởi vì cuộc sống ở nông thôn miền
tây khá yên bình. Tuy nhiên, nếu khai thác tốt các khía cạnh của đời sống sinh
hoạt hàng ngày và tạo ra các hoạt động để du khách cơ hội trải nghiệm sẽ mang đến
những ấn tượng lý thú khó quên cho du khách.
Một số hoạt động vui chơi, giải trí có thể khai thác như học
cách làm đồ thủ công mỹ nghệ truyền thống từ các nghề thủ công xung quanh địa
bàn lưu trú như sơ chế dừa (xã Tây Yên), chằm lá (xã Nam Yên) và nuôi sò huyết
- tôm - cua (xã Nam Thái A),… gần hộ Sáu Bé còn có thể liên kết với các hộ làm
đồ rập cua, làm lưới, vì vậy có thể kết hợp với những hộ này để giúp đa dạng hoạt
động của du khách hơn.
Ngoài ra, trong vườn nhà còn có các vuông nuôi cua, có thể
cho du khách tham gia cùng thành viên trong gia đình để rập cua, bắt cua, hướng
dẫn du khách trói cua, chế biến các món ăn từ cua. Không những thế, có thể chở
được tham quan các khu vực bãi bồi và cho du khách cào nghêu, vẹm, sò huyết
cùng với người dân địa phương. Đây là những hoạt động đặc trưng có thể khai
thác trong việc phát triển du lịch homestay vùng ven biển An Biên.
Các dịch vụ kèm theo ở homestay cần có bao gồm bán đồ ăn nhẹ,
đồ uống và hàng lưu niệm và các tour du lịch trong phạm vi địa phương (tour du
lịch văn hóa ngắn tại địa phương, hướng dẫn đi bộ quanh làng xóm, tham quan các
ngôi chùa Nam Tông cùng với các lễ hội của người Khmer tại đại phương hoặc khu
vực thiên nhiên).
3.4. Giải pháp phát triển du lịch homestay ở huyện An Biên,
tỉnh Kiên Giang
Để phát triển du lịch homestay ở huyện An Biên, tỉnh Kiên
Giang đạt chất lượng và hiệu quả, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp được đề
xuất như sau:
3.4.1 Khuyến khích và
hỗ trợ người dân tham gia làm du lịch homestay
Du khách đánh giá rằng, kiến thức và nghiệp vụ của người
tham gia cung ứng trong du lịch homestay đòi hỏi là cần thiết và phải chuyên
nghiệp. Tuy nhiên, kiến thức và chuyên môn nghiệp vụ về du lịch nói chung, du lịch
homestay nói riêng là khó khăn lớn nhất của các hộ dân ở An Biên, và đây cũng
là trở ngại lớn đối với các hộ dân muốn tham gia vào du lịch. Vì thế, cơ quan
chức năng cần tổ chức các buổi tập huấn về kỹ năng, nghiệp vụ và quy trình phục
vụ khách khi lưu trú tại homestay, các lưu ý đối với khách nước ngoài khi lưu
trú,… cho các hộ kinh doanh.
Cần có những lớp tập huấn và dạy một số câu nói giao tiếp cơ
bản bằng tiếng nước ngoài (trong đó tiếng Anh là quan trọng nhất) cho các thành
viên tham gia cung ứng dịch vụ homestay mà chủ yếu là các thành viên trẻ trong
hộ gia đình. Thường xuyên mở các buổi chia sẻ kinh nghiệm về homestay giữa các
hộ dân với nhau, giữa công ty lữ hành với người dân và các hộ kinh doanh homestay
ở địa phương khác để mở rộng tâm lý, nhu cầu của du khách từ đó có sự điều chỉnh
sản phẩm cung ứng cho thích hợp và đạt hiệu quả.
Nguồn vốn đầu tư cho hoạt động du lịch là khó khăn lớn thứ
hai của người dân, do đó chính quyền địa phương cần khuyến khích sự tham gia của
người dân vào hoạt động du lịch, nhất là đối với hoạt động du lịch homestay hoặc
cung cấp các dịch vụ bổ sung phục vụ cho loại hình này thông qua việc khuyến
khích bằng việc hỗ trợ vốn và vay vốn đối với các hộ dân tham gia.
3.4.2 Nâng cao nhận thức
của người dân về du lịch homestay
Nhân thức của người dân ở An Biên về du lịch homestay chưa
cao, do đó cần tuyên truyền để nâng cao nhận thức của người dân về du lịch
homestay và lợi ích của nó mang lại như nâng cao thu nhập, cải thiện chất lượng
cuộc sống, tạo thêm việc làm,… thông qua các buổi chia sẻ, tập tuấn về du lịch
homestay do các cơ quan du lịch và các nhóm nghiên cứu chủ chốt. Đồng thời, cần
tuyên truyền cho cả người dân tham gia lẫn không tham gia du lịch homestay về sự
thân thiện và hiếu khách đối với khách du lịch, thái độ phục vụ của người dân
kinh doanh, vì đây là những mong đợi và điều kiện cần có của hoạt động du lịch.
3.4.3 Đầu tư cơ sở hạ
tầng
Sự hoàn thiện cơ sở hạ tầng là một trong những điều kiến
phát triển du lịch homestay thông qua đánh giá của du khách cũng như đây là yếu
tố cần được cải thiện hàng đầu khi khảo sát ý kiến của người dân địa phương. Do
đó, cơ quan chức năng và chính quyền địa phương cần có chính sách đầu tư về: Bảng
chỉ dẫn du lịch vào huyện cũng như bảng chỉ dẫn các homestay; cần tráng nhựa,
lót đan ở các tuyến đường nông thôn, độ rộng của các tuyến đường phải đảm bảo
cho khách di chuyển an toàn cũng như chất lượng mặt đường phải bằng phẳng,
tránh gồ ghề và trơn trượt vào mùa mưa. Các vấn đề về điện và nước cũng phải được
cung cấp đầy đủ hơn để phục vụ cho nhu cầu của du khách, nhất là nước ngọt với
tiêu chí đảm bảo vệ sinh và đèn chiếu sáng ở các lối đi.
3.4.4 Đa dạng các hoạt
động trải nghiệm cho du khách
Các cơ sở homestay cũng phải thiết kế các hoạt động theo hướng
trải nghiệm cho du khách khi lưu trú tại cơ sở của mình nhằm tạo nên sự hứng
thú và hấp dẫn như “một ngày làm ngư dân” với hoạt động đánh bắt, thu hoạch các
loại thủy hải sản (sò, cua, tôm,…), trồng và chăm sóc rau sạch, làm vườn cùng
chủ nhà, giao lưu văn nghệ, học cách làm bánh dân gian hoặc các sản phẩm thủ
công ở địa phương,… Tạo trải nghiệm nấu các món ăn mang đậm chất ẩm thực địa
phương, hướng dẫn du khách ăn theo cách truyền thống và sử dụng những nguyên liệu
địa phương đang trong mùa như cua nấu chao, gỏi sò huyết, một số món chim, cò,
vạc bắt được từ ngoài đồng,…. Ngoài ra, giúp cho du khách khám phá và học hỏi
các văn hóa cũng như phong tục tập quán của địa phương thông qua dẫn khách tham
quan các công việc hàng ngày của người nông dân, ngư dân, làng nghề, chùa,
đình, lễ hội,…
3.4.5 Quy hoạch không
gian xây dựng du lịch homestay hợp lý
Không gian homestay thích hợp, an toàn và vệ sinh đảm bảo là
những điều cần thiết phải có ở cơ sở kinh doanh du lịch homestay. Khi phát triển
du lịch homestay ở địa phương cần giữ nguyên bản sắc vùng thôn quê, tránh chạy
theo các xu hướng phát triển du lịch hiện đại mà phá hủy các cảnh quan thiên
nhiên, phá hủy môi trường, cây cối,… mà thay vào đó là tôn tạo, trồng thêm cây
xanh để tạo bầu không khí trong lành, bình yên chốn thôn quê.
Để đảm bảo vệ sinh và an toàn đến sức khỏe của du khách, thì
vấn đề chuồng trại nuôi gia súc, gia cầm cần phải tách biệt với khu nhà ở và
nơi lưu trú của khách để tránh gây ô nhiễm môi trường.
Vấn đề nhà ở cũng tương tự như thế, nhà ở của các hộ dân
cũng không cần xây mới và hiện đại mà nên giữ nguyên hiện trạng kiến trúc của
ngôi nhà, cần tu sửa một số kiến trúc hư tổn để phục vụ khách tốt hơn. Chính
quyền địa phương và các ban ngành lĩnh vực du lịch cũng cần hướng dẫn người dân
xây dựng không gian homestay hợp lý, tránh làm tự phát và không bài bản.
3.4.6 Thay đổi cơ chế
chính sách phát triển du lịch
Năng lực tổ chức du lịch homestay của người dân còn chưa cao
và được người dân đánh giá rằng đây là khó khăn không nhỏ mà họ gặp phải trong
việc phát triển du lịch homestay tại An Biên. Do đó, Để tránh sự liên kết trong
tổ chức du lịch homestay tại huyện An Biên, tỉnh Kiên Giang mờ nhạt và kém hiệu
quả, thì cần sự quan tâm và phối hợp đồng bộ từ ba phía:
(1) cơ quan nhà nước và chính quyền địa phương; (2) công ty
du lịch lữ hành và (3) hộ dân kinh doanh homestay. Trong đó, cơ quan nhà nước
và chính quyền địa phương đóng vai trò là trung gian, giúp đỡ và đưa ra các cơ
chế chính sách phù hợp.
Các cơ quan ban ngành du lịch và chính quyền địa phương cần
hướng dẫn người dân các thủ tục khi tham gia kinh doanh loại hình du lịch
homestay; cần có những chính sách hỗ trợ như về thông tin, thị trường khách, hỗ
trợ phối hợp với công ty du lịch trong việc đưa khách đến tham quan và lưu trú,…
cần hỗ trợ người dân tập huấn và đào tạo về kinh doanh và phục vụ du khách đối
với du lịch homestay; các cơ quan địa phương cũng cần theo dõi người dân, tránh
xảy ra tình trạng hoạt động tự phát mà phải có sự hỗ trợ và hướng dẫn người dân
hoạt động; tránh tình trạng cạnh tranh không lành mạnh giữa các hộ cung ứng dịch
vụ với nhau.
4. KẾT LUẬN
Huyện An Biên có rất nhiều tiềm năng để phát triển loại hình
du lịch sinh thái nói chung và du lịch homestay nói riêng. Tuy nhiên, thời gian
qua những tài nguyên ấy chưa được khai thác hợp lý và một số còn ở dạng tiềm
năng. Du lịch tại huyện chưa thật sự nhận được sự quan tâm, đầu tư, khai thác một
cách đúng mức từ phía cơ quan quản lí nhà nước và các đơn vị kinh doanh lữ hành
trong tỉnh.
Nhìn chung, cơ sở vật chất - kỹ thuật phục vụ du lịch như hệ
thống các điểm du lịch, các điểm tham quan, vui chơi giải trí còn thiếu quy hoạch
và khai thác; hệ thống cơ sở lưu trú du lịch qui mô còn nhỏ lẻ, và mang tính tự
phát chưa đáp ứng được yêu cầu để tiến hành hoạt động kinh doanh lưu trú du lịch
theo tiêu chuẩn, hệ thống giao thông đường bộ cần được quan tâm nâng cấp hơn nữa,
nhất là các tuyến lộ đến các điểm du lịch, các khu vực có tiềm năng để xây dựng
loại hình du lịch homestay của huyện.
Do đó, để khai thác tối đa tiềm năng du lịch của huyện, đặc
biệt là để xây dựng và phát triển loại hình du lịch homestay gắn với cộng đồng
địa phương thì cần phải có những chính sách ưu đãi, sự quan tâm, hỗ trợ của
chính quyền và các cơ quan chức năng để cùng nhau xây dựng và phát triển loại
hình du lịch homestay tại huyện nhằm góp phần nâng cao thu nhập, cải thiện cuộc
sống của người dân, đồng thời góp phần xây dựng nông thôn mới hướng tới phát
triển sinh kế bền vững.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Minh Anh và Hải Yến, 2008. Cẩm nang du lịch Việt Nam. Nhà xuất
bản Hồng Đức. Hà Nội, 493 trang.
Hair, J. F., Anderson, R. E., Tatham, R. L., and Black, W.
C., 1998. Multivariate data analysis (5th ed.). Englewood Cliff. New Jersey,
USA.
Nguyễn Thị Lan Hương, 2016. Du lịch làng nghề - Tiềm năng và
định hướng phát triển, ngày truy cập 16/1/2019. Địa chỉ:
http://www.spnttw.edu.vn/Pages/Articledetail.as
Nguyễn Diệp Mai, 2017. Khảo sát thực trạng và định hướng bảo
tồn, phát huy các giá trị di sản văn hóa phi vật thể trên địa bàn tỉnh Kiên
Giang. Đề tài nghiên cứu khoa học. Sở Khoa học và Công nghệ Kiên Giang. Tỉnh
Kiên Giang.
Phạm Thị Vui, 2012. Văn hóa của người Khmer trong định hướng
phát triển du lịch tỉnh Kiên Giang.
Luận văn Cao học. Trường Đại học Sư phạm Thành phố Hồ Chí
Mình. Thành phố Hồ Chí Minh.
Trần Ngọc Cường và Nguyễn Tự Nam, 2016. Những giá trị đa dạng
sinh học nổi bật tại khu bảo tồn đất ngập nước Láng Sen và Vườn quốc gia U Minh
Thượng. Tạp chí Môi trường. 12: 17-18.
Trương Trí Thông và Lý Mỷ Tiên, 2018. Tiềm năng, thực trạng
và giải pháp phát triển du lịch tại làng nghề dệt thổ cẩm của đồng bảo Khmer ở
xã Văn Giáo, huyện Tịnh Biên, tỉnh An Giang. Tạp chí Khoa học Trường Đại học Cần
Thơ. 54(4C): 137-147.
Nguồn: Tạp chí khoa học Đại học Cần Thơ