Cuộc khai quật khảo cổ học từ tháng 12/2002 đến 31/3/2004 do Viện Khảo cổ học Việt Nam thực hiện tại địa điểm 18 Hoàng Diệu, Ba Đình (Hà Nội), đã phát lộ một quần thể bao gồm nhiều loại hình di tích kiến trúc dưới lòng đất, minh chứng sự hiện hữu lâu dài của Kinh đô Thăng Long, một trong 4 kinh đô nổi tiếng của Việt Nam trong lịch sử.
PGS. TS Tống Trung Tín
TS Bùi Minh Trí
Viện Khảo cổ học Việt Nam
Lời mở đầu
Cuộc khai quật khảo cổ học từ tháng 12/2002 đến 31/3/2004 do
Viện Khảo cổ học Việt Nam thực hiện tại địa điểm 18 Hoàng Diệu, Ba Đình (Hà Nội),
đã phát lộ một quần thể bao gồm nhiều loại hình di tích kiến trúc dưới lòng đất,
minh chứng sự hiện hữu lâu dài của Kinh đô Thăng Long, một trong 4 kinh đô nổi
tiếng của Việt Nam trong lịch sử.
Quần thể dấu tích kiến trúc và hàng vài triệu di vật được
tìm thấy ở đây cho thấy lịch sử tồn tại liên tục, lâu dài không đứt đoạn của
trung tâm quyền lực qua 1300 năm, từ thời Tiền Thăng Long, giai đoạn chịu sự thống
trị của Trung Quốc thời thuộc Đường (thế kỷ 7-9), đến thời kỳ Thăng Long, dưới
sự trị vì của các vương triều Lý - Trần - Lê (từ năm 1010 đến năm 1789).
Bài viết này sẽ giới thiệu khái quát những phát hiện quan trọng
của khảo cổ học tại khu di tích Hoàng thành Thăng Long qua các thời kỳ lịch sử.
1. Hình thái Kinh thành Thăng Long
Sau 41 năm nhà Đinh và Tiền Lê định đô ở Hoa Lư (968-1009),
năm 1010, Lý Thái Tổ, vị vua sáng lập triều Lý, thấy thành Hoa Lư ẩm thấp chật
hẹp, không đủ làm chỗ của đế vương, muốn dời đi nơi khác, tự tay viết chiếu
truyền rằng:
“… Thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất,
được thế rồng cuộn hổ ngồi, chính giữa Nam Bắc Đông Tây, tiện hình thế nhìn
sông dựa núi. Vùng này mặt đất rộng mà bằng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư
không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước
Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là
nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời…”(1)
Quyết định của nhà vua đã biến một khu vực vốn là thủ phủ -
An Nam đô hộ phủ, thuộc triều đình Trung Hoa thời Đường và Đại Cồ Việt thời
Đinh - Lê thành trung tâm chính trị - văn hóa của nền văn minh Đại Việt trong
suốt một ngàn năm tiếp theo.
Ngay từ buổi đầu dựng đô, nhà Lý đã xây dựng thành Thăng
Long với cấu trúc gồm 3 vòng thành bao bọc lẫn nhau:
- Vòng kinh thành là vòng ngoài cùng, vòng thành
lớn nhất có tên gọi là thành
Đại La hay Đại La thành.
- Vòng thành thứ hai là Hoàng thành (tên gọi phổ
biến dưới thời Lê). Đây là vòng thành quan trọng bao bọc các cung điện, lầu
gác, chùa tháp, đền đài của Hoàng gia.
- Vòng thành thứ ba là Cấm thành, là vòng thành
quan trọng nhất, trong cùng, bao quanh nơi ở và làm việc của nhà vua và Hoàng
gia, trong đó toà điện trung tâm là nơi thiết triều.
Nhìn trên bản đồ cổ đối sánh với bản đồ hiện đại, khu di
tích 18 Hoàng Diệu và khu vực vẫn quen gọi là thành cổ Hà Nội ở đúng trục chính
tâm Bắc - Nam và một phần phía Tây liền kề với kiến trúc trung tâm của Cấm
thành Thăng Long xưa. Tổng thể cả hai phần di tích này chính là khu di tích
Trung tâm Hoàng thành Thăng Long - Hà Nội (xem Bản đồ 1-2).
2. Những phát hiện của khảo cổ học dưới lòng đất
Tại địa điểm 18 Hoàng Diệu, trong diện tích khai quật
19.000m2, các nhà khảo cổ học đã phát hiện được từ dưới lòng đất nhiều tầng văn
hoá chồng xếp lên nhau qua nhiều triều đại .
Từ trên xuống dưới có thể thấy rõ các lớp đất và các lớp văn
hoá như sau:
- Từ mặt đất hiện đại đến độ sâu 0,8m-1,0m là các lớp
đất hiện đại.
- Ở độ sâu khoảng trên 1,0m thường có các dấu
tích thời cận đại, thời Nguyễn (khoảng thế kỷ 19- đầu thế kỷ 20).
- Từ độ sâu dưới 1.0m đến 1,5m là lớp văn hoá thời Lê
(thế kỷ 15-18).
- Từ độ sâu 1,5m đến 2,5m là lớp văn hoá thời Lý - Trần
(thế kỷ 11-14). Một số vị trí dưới cùng của lớp này là dấu tích văn hoá thế kỷ
10.
- Từ độ sâu 2,5m đến hơn 3m là lớp văn hoá thời Đại
La, niên đại thế kỷ 7-9.
2.1. Thời Đại La (thế kỷ 7-9):
Qua diễn biến địa tầng nêu trên, ở tầng văn hoá sâu nhất, dưới
cùng, lần đầu tiên giới khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích kiến trúc thời Đại La,
xác nhận những điều ghi trong Chiếu dời đô về thành Đại La của vua Lý Công Uẩn
và cho thấy sự trù phú miền đất Giao Châu (tên gọi Bắc Việt Nam lúc đó).
Đại La là lị sở của An Nam đô hộ phủ thuộc triều đình Trung
Hoa vào thời nhà Đường, được gọi là thời Đại La hay Tiền Thăng Long.
Bằng chứng đầu tiên của khảo cổ học về thời kỳ này là phát
hiện các dấu tích của những phần nền kiến trúc cùng nhiều hệ thống đường cống
nước chạy theo hướng Bắc- Nam hoặc Đông - Tây, được xây xếp bằng loại gạch hình
chữ nhật màu xám, có ghi chữ Hán “Giang Tây quân” hay “Giang Tây”, loại gạch đặc
trưng của kiến trúc thời Đại La.
Những dấu tích này được phát hiện ở tầng đất bên dưới của kiến
trúc thời Lý, Trần.
Một số móng của công trình kiến trúc thời Đại La được tìm thấy
ở khu D cùng nhiều loại hình vật liệu như ngói, đầu linh thú trang trí trên
mái, cho thấy các công trình kiến trúc thời Đại La là kiến trúc gỗ có mái lợp
ngói âm dương.
Trong lịch sử kiến trúc cổ truyền phương Đông, kiến trúc thường
được xây dựng theo kiểu khung nhà trên cột. Để chống đỡ sức nặng của bộ khung
có mái ngói nặng, việc gia cố cho các
móng trụ và chân tảng đỡ trụ được đặc biệt coi trọng.
Theo thời gian, bộ khung nhà bằng gỗ bị phá huỷ và tiêu biến
thì dấu tích còn lại chủ yếu là móng trụ.
Chính vì vậy, trong thời Đại La, móng trụ đã tìm thấy ở các
hố D4-D6. Đặc điểm các móng trụ của thời kỳ này là dùng ngói vỡ đầm chặt trong
một hố vuông nhỏ. Các móng trụ như vậy có sức chống lún rất bền vững để trên đó
người thợ có thể đặt chân tảng đá đỡ toàn bộ khung nhà bằng gỗ.
Tuy nhiên, do chưa có điều kiện làm xuất lộ nguyên vẹn một
bình diện mặt bằng kiến trúc và chưa tìm thấy dấu tích chân tảng kê cột, nên
chưa thể đưa ra những đánh giá về kết cấu, qui mô của kiến trúc thời kỳ này một
cách rõ ràng.
Ngoài phát hiện các dấu tích kiến trúc, tại khu di tích đã
tìm thấy 3 giếng nước đều được xây dựng bằng loại gạch màu xám. Trong đó, giếng
nước ở vị trí hố B3 là còn hoàn chỉnh nhất. Giếng hình tròn, đường kính miệng
trong 0,75m, đường kính miệng ngoài 135m và sâu 5,9m, được xây dựng rất chắc chắn,
cứ 3-4 lớp gạch xếp nằm ngang lại xen một hàng gạch xếp đứng.
Điều đặc biệt thú vị là trên miệng giếng được xây dựng thêm
một hàng gạch màu đỏ xếp nghiêng. Nghiên cứu so sánh có thể khẳng định đó là gạch
thời Lý.
Bằng chứng này cho thấy một thông tin quan trọng rằng, chiếc
giếng đó đã được thời Lý tái sử dụng sau khi dời đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về
thành Đại La để xây dựng Kinh đô Thăng Long vào mùa thu năm 1010.
Cùng với các phát hiện nêu trên, nhiều loại hình di vật gồm
gạch, ngói, đồ gốm sứ của thời Đại La cũng được tìm thấy.
Gạch có các loại gạch xây, gạch lát nền. Gạch xây tiêu biểu
là các viên gạch hình chữ nhật có in chữ “Giang Tây quân”, “Giang Tây chuyên”
hay “Giang Tây” được sản xuất vào khoảng thế kỷ 9.
Gạch lát hình vuông có khá nhiều loại, trong đó nhiều và phổ
biến là loại gạch trang trí in nổi hoa sen, nhưng độc đáo và đặc sắc nhất là loại
gạch trang trí in nổi hình cá sấu bơi trên sóng nước.
Các loại ngói lợp chủ yếu là ngói âm dương. Trong đó, loại
ngói dương hình ống, thuật ngữ chuyên môn gọi là ngói ống, có đầu trang trí hoa
sen với nhiều kiểu loại, có loại trang trí hình mặt linh thú khá độc đáo. Một số
tượng sư tử lớn, dáng vẻ oai nghiêm, dữ dội cũng được tìm thấy (xem Ảnh 3-4).
Các loại vật liệu kiến trúc của thời kỳ này có đặc điểm quan
trọng chủ yếu là được làm bằng loại đất màu xám đen, hoa văn được tạo bằng
khuôn in và có độ nung không cao.
Các hình mẫu hoa văn và phong cách trang trí cho thấy nó vừa
phản ánh những đặc trưng nghệ thuật truyền thống Trung Hoa vừa phản ánh sự tiếp
biến văn hoá và mang tính bản địa hoá.
Loại ngói ống lợp diềm mái có đầu trang trí mặt linh thú là
hình ảnh khá xa lạ với nghệ thuật truyền thống Trung Hoa, là ví dụ phản ánh rõ
sự chuyển biến về văn hoá và sự hoà nhập với văn hoá bản địa.
Bên cạnh vật liệu kiến trúc, nhiều loại đồ gốm sinh hoạt được
tìm thấy, gồm đồ sứ men xanh, men trắng, chủ yếu được mang sang từ Trung Quốc.
Đó là những loại bình, vò có 4 quai hoặc 6 quai trên vai hay đặc sắc hơn là tượng
sư tử men xanh với khối hình rất hiện thực.
Đáng lưu ý là lần đầu tiên nhiều loại gốm vẽ màu của lò gốm
Trường Sa (vùng Nam Trung Quốc) được tìm thấy cùng với các mảnh vỡ của loại
bình gốm xốp men xanh Hồi vùng Tây Á, còn gọi là gốm Islam.
Gốm Islam là loại gốm nổi tiếng thế giới, đã từng tham gia
vào con đường gốm sứ trên biển ngay từ đầu thế kỷ thứ 9. Trên thế giới người ta
đã tìm thấy loại gốm này ở nhiều di tích trên đất liền và dưới đáy đại dương
cùng với gốm Trường Sa (Trung Quốc). Nhưng ở Việt Nam, loại gốm này rất hiếm
tìm thấy ngoài một số phát hiện ở đảo Cù Lao Chàm và khu vực miền Trung.
Nhiều chuyên gia nghiên cứu lịch sử thương mại quốc tế cho rằng,
gốm Islam là một trong 5 loại gốm (gốm Định Châu (gốm trắng), gốm Việt Châu
(men ngọc), gốm Trường Sa (vẽ màu), gốm men vàng Nam Trung Quốc và gốm Islam
(men xanh lam) là loại gốm chỉ định hay là bằng chứng chắc chắn về mối giao
thương quốc tế của con đường tơ lụa trên biển vào thế kỷ 9 - 10.
Những mảnh gốm Islam tìm được ở Hoàng thành Thăng Long tuy
chưa nhiều nhưng nó mang ý nghĩa lịch sử rất quan trọng. Bởi đây chính là minh
chứng về sự giao lưu thương mại giữa Tây Á với vùng đất An Nam đô hộ phủ vào thế
kỷ thứ 9 qua con đường tơ lụa trên biển.
Cũng chính nhờ những manh mối này cùng với gốm Trường Sa
(Trung Quốc) mà các nhà khảo cổ học đã lần tìm và phát hiện ra các dấu tích cư
trú của thời kỳ An Nam đô hộ phủ ngay trong khu vực Hoàng thành Thăng Long (2).
Tất cả những bằng chứng khảo cổ học nói trên phản ánh một vấn
đề lịch sử rất quan trọng thời kỳ Tiền Thăng Long rằng: An Nam đô hộ phủ là một
trung tâm phồn thịnh của khu vực Bắc Bộ, lúc đó gọi là Giao Châu, vào thế kỷ
7-9.
2.2. Thời Đinh - Tiền Lê (thế kỷ 10)
Ở tầng văn hóa bên trên lớp văn hoá Đại La là những dấu tích
văn hoá của liên tiếp các thế kỷ 10 đến thế kỷ 14. Lớp văn hoá của thế kỷ 10,
thời Đinh - Tiền Lê ở đây là rất khó tách biệt.
Tuy nhiên, bên dưới các dấu tích kiến trúc Lý, các nhà khảo
cổ học đã nhận ra được có sự khá tập trung của các di vật thế kỷ 10 như các loại
vò sành có quai hay trang trí văn sóng nước, văn thừng mang đặc trưng của nghệ
thuật thế kỷ 10.
Đặc biệt tại đây đã tìm thấy loại gạch hình chữ nhật in chữ
Hán “Đại Việt quốc quân thành chuyên” (gạch xây quân thành của nước Đại Việt)
và loại ngói úp nóc mái có gắn hình tượng chim uyên ương với đường nét đơn giản
và hình khối thuôn mập.
Những di vật này tương tự với các loại gạch, ngói dùng để
xây dựng các cung điện ở Cố đô Hoa Lư (nửa cuối thế kỷ 10 - đầu thế kỷ 11) đã từng
được khảo cổ học khai quật được vào những năm 19983.
Rõ ràng trước khi xây dựng Thăng Long, trong thế kỷ 10 đã có
các công trình kiến trúc to lớn được xây dựng trên nền đất Đại La mà sau đó thời
Lý tiếp nối.
2.3. Thời Lý (thế kỷ 11-12)
Dấu tích kiến trúc thời Lý được tìm thấy dày đặc, phân bố rộng
khắp toàn khu di tích, được nhận biết dựa trên các yếu tố sau đây:
- Hệ thống các móng trụ hình vuông, xếp thành
hàng ngang, dãy dọc với khoảng cách khá qui chuẩn, kích thước lớn và vị trí mỗi
móng trụ là vị trí của một cột gỗ. Tiêu biểu là kiến trúc 13 gian (đã xuất lộ 9
gian) ở phía Bắc khu A hay kiến trúc 13 gian ở giữa khu B, kiến trúc 9 gian ở hố
D4-D5.
- Tổ hợp hai kiến trúc nằm theo hướng Đông -
Tây, mặt quay về phía Nam ở phía Nam khu A, bao gồm một kiến trúc với hệ thống
3 hàng cột mỗi hàng và một kiến trúc có hệ thống 7 hàng cột mỗi hàng, có qui mô
lớn, kèm theo đó là hai sân gạch lát nền bằng loại gạch vuông ở giữa và phía
sau rất đặc trưng của kiến trúc thời Lý.
Móng trụ thời Lý được xây dựng bằng cách là tại vị trí đặt
các cột gỗ, người thợ đào một hố hình vuông, sâu khoảng từ 1m đến 1,5m, sau đó
nhồi đầm chặt bằng các loại vật liệu như:
+ Sỏi sông trộn với đất sét;
+ Mảnh vỡ của các loại đồ sành được ghè nhỏ và trộn với đất
sét;
+ Mảnh gạch ngói vỡ nhỏ trộn với đất sét;
+ Hay là sự hỗn hợp giữa hai hoặc nhiều loại vật liệu nói
trên để tạo thành móng trụ chống lún cột của công trình.
Kỹ thuật xây dựng móng trụ này là nhằm chống lún các kiến
trúc cung điện có qui mô to lớn. Đặt lên trên các móng trụ là hệ thống các chân
tảng đá kê cột gỗ. Chân tảng đá thời Lý được tạo tác rất công phu, bề mặt chạm
nổi các cánh hoa sen.
Nền công trình được đắp bằng loại đất sét màu nâu sẫm, rất rắn
chắc. Bên trên nền đất này, nhiều loại gạch, gồm gạch vuông, gạch chữ nhật màu
đỏ được sử dụng để lát nền hay bó thềm
xung quanh công trình.
Trong đó, có loại gạch ghi rõ niên đại thời Lý như “Lý Gia đệ
tam đế Long Thụy Thái Bình tứ niên tạo” (1057), “Lý Gia đệ tứ đế Chương Thánh
Gia Khánh thất niên tạo” (1065).
Dựa trên các yếu tố như vậy, các nhà khảo cổ học đã từng bước
nhận diện và nghiên cứu, phân tích làm rõ từng dấu tích của một số loại mặt bằng
kiến trúc thời Lý (xem Bản vẽ 1):
- Có mặt bằng kiến trúc nhiều gian nằm theo hướng Bắc-
Nam với các vì kèo có 6 hàng cột (kiến trúc A1). Ở một vài vị trí cột quân của
kiến trúc vẫn còn chân tảng đá. Quanh kiến trúc này có hệ thống cống thoát nước
được xây dựng rất công phu, khoa học.
- Tại phía Nam khu A, có hai kiến trúc thời Lý đều nằm
theo hướng Đông - Tây:
+ Kiến trúc nhỏ nằm ở phía Bắc chỉ có 3 hàng cột. Kiến trúc
này có đặc tính gạch bó nền rất chắc chắn. Nhiều móng trụ vẫn còn chân tảng đá
hoa sen.
+ Kiến trúc lớn hơn nằm ở phía Nam có dấu tích của 7 hàng cột
với kích thước lòng nhà lớn vào loại bậc nhất trong toàn bộ các dấu tích kiến
trúc Lý đã được phát lộ.
- Kiến trúc nhiều gian khu B là đơn nguyên kiến
trúc đã tìm thấy đầy đủ 13 gian với các vì nhà có cấu trúc kiểu 3 hàng cột chạy
theo hướng Bắc - Nam.
- Kiến trúc 9 gian ở khu D nằm theo hướng Đông - Tây,
song song về hai bên kiến trúc này còn có 6 kiến trúc đăng đối 2 bên.
Đặc điểm đáng lưu ý là, trong các công trình kiến trúc nói
trên, nhiều kiến trúc có các cột hiên được chôn sâu dưới lòng đất, nhằm gia cố
sự bền vững của công trình. Kỹ thuật chôn cột và sự gia cường chống lún là những
đặc trưng phản ánh về trình độ xây dựng cao và rất qui chuẩn của thời Lý.
Bên cạnh những kiến trúc có mặt bằng chữ nhật, tại khu di
tích còn tìm thấy những kiến trúc có mặt bằng đa giác rất độc đáo, cụ thể là những
trường hợp nêu dưới đây.
Ngay phía Tây của kiến trúc phía Bắc khu A tìm thấy một hệ
thống gồm 11 cụm trụ móng sỏi tròn, nằm chạy dọc theo hướng Bắc - Nam dài hơn
82m. Mỗi cụm móng trụ này được tạo bởi 6 trụ sỏi tròn nhỏ xếp lại thành hình
bông hoa 6 cánh, ở giữa là một trụ hình vuông.
Loại hình kiến trúc
này đang được giả thiết có thể là lầu lục giác (lầu 6 cạnh), được xây dựng nhằm
phục vụ cho nhu cầu thưởng ngoạn trong Hoàng cung.
Loại kiến trúc lầu lục giác tương tự như vậy cũng được tìm
thấy 3 cụm tại khu vực phía Đông của hố D6 (khu D).
Phát hiện có tầm quan trọng đặc biệt hơn là dấu tích nền
móng của một công trình kiến trúc bát giác thời Lý ở khu C có qui mô lớn và thể
cú nhiều tầng mỏi. Đường kính phần nền của kiến trúc này khoảng 21,40m, có hệ
thống 8 móng trụ kép (16 móng trụ, kích thước 1,7m x 1,7m), 01 móng trụ lớn
(2,4m x 2,4m) ở giữa trung tâm, xung quanh có sân lát gạch vuông (xem Bản vẽ
2).
Dựa vào bình diện mặt bằng, kích thước, sự kiên cố của hệ thống
móng trụ và kết quả nghiên cứu so sánh, chúng tôi đưa ra nhận định rằng: kiến
trúc kiểu bát giác này có mặt bằng qui mô to lớn tương đương như mặt bằng kiến
trúc Tháp Thích Ca (Trung Quốc) thời Tống và hình dáng của nó có thể thuộc loại
kiến trúc có nhiều tầng mái. Rất có thể đây là kiến trúc cung điện và như vậy
nó có thể có 2 hoặc 3 tầng mái.
Đặc biệt, chính sử Việt Nam còn ghi chép được một trường hợp
kiến trúc kiểu bát giác thời Lý, đó là điện Thiên Khánh năm 1030. Cụ thể sử
chép như sau: “Làm điện Thiên Khánh ở trước điện Trường Xuân để làm chỗ (vua)
nghe chính sự. Điện làm kiểu bát giác, trước sau đều bắc cầu Phượng Hoàng”4.
Cũng theo chính sử, điện Trường Xuân được xây dựng vào năm
1029, là điện của vua ở và nằm trong trung tâm Cấm thành. Như vậy, điện Thiên
Khánh làm sau điện Trường Xuân 01 năm và ở ngay trước điện Trường Xuân để vua
làm việc. Rất có thể mặt bằng kiến trúc bát giác ở khu C thuộc loại kiến trúc
như điện Thiên Khánh.
Như vậy, chỉ trong một diện tích rất nhỏ so với tổng thể rộng
lớn của Kinh thành Thăng Long, khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích nhiều cung điện,
trong đó nhiều nhất là thời Lý.
Các công trình kiến trúc này từng được qui hoạch, thiết kế rất
hoàn chỉnh, được bố trí thành nhiều tầng, nhiều lớp khác nhau với các toà
ngang, dãy dọc rất bài bản, quy củ trước khi xây dựng. Chỉ riêng ở khu D4-D6,
trong khoảng diện tích 2.500m2 đã tìm thấy 21 dấu tích kiến trúc khác nhau,
trong đó chủ yếu là các kiến trúc Lý chồng xếp lên nhau, chứng tỏ mật độ xây dựng
rất cao trong suốt 200 năm trị vì của nhà Lý.
Chẳng những dấu tích móng nền kiên cố, các công trình kiến
trúc đó còn được trang trí rất đẹp như các tượng đầu rồng, đầu phượng, uyên
ương, hàng chục kiểu ngói lợp có gắn hình lá đề, bên trong lá đề đó trang trí
sinh động với vô số các biến thể hoa văn rồng, phượng biểu trưng cho vương quyền
kết hợp chặt chẽ với thần quyền trong thời Lý (xem Ảnh 5- 6).
Ngoài dấu tích kiến trúc nói trên, tại khu di tích còn tìm
được 02 giếng nước nhằm phục vụ cho đời sống sinh hoạt hàng ngày. Đó là giếng
nước được xây xếp bằng gạch đỏ ở giữa khu A và giếng nước ở khu vực hố B16.
Bên cạnh đó, hàng nghìn di vật gốm sứ thời Lý, như gốm men
ngọc, men trắng, men vàng, men xanh lục, hoa văn phong phú, tinh xảo, dáng vẻ
thanh thoát, tinh tế được tìm thấy trong các khu, minh chứng cho tính chất quan
trọng của khu di tích trung tâm Hoàng thành Thăng Long thời Lý.
Dấu tích kiến trúc hành lang thời Lý, thế kỷ 11 – 12, là phát hiện có giá trị đặc biệt. Tại đây đã tìm thấy 2 dấu tích kiến trúc thời Lý nằm chồng lên nhau.
Móng cột thời Lý, thế kỷ 11-12.
Dấu tích nền gạch thời Lý, thế kỷ 11 - 12.
2.4. Thời Trần (thế kỷ 13-14)
Tiếp nối thời Lý, thời Trần thế kỷ 13-14 đã sử dụng lại một
số công trình kiến trúc thời Lý. Nhưng về cơ bản, thời Trần, nhất là giai đoạn
cuối Trần (thế kỷ14), đã qui hoạch xây dựng Kinh đô Thăng Long theo một diện mạo
mới, phản ánh xu hướng phát triển của xã hội đương thời.
Minh chứng cho điều này là những phát hiện về những dấu tích
kiến trúc thời Trần chồng xếp lên trên các kiến trúc thời Lý. Quan sát các dấu
tích kiến trúc đó có thể thấy rõ truyền thống Lý ở kỹ thuật đắp nền đất sét,
xây dựng móng trụ sỏi, bó nền bằng gạch bìa.
Nhưng bên cạnh đó kiến trúc Trần cũng thể hiện đặc trưng
riêng bởi những đường viền bó vỉa được xếp theo kiểu hoa văn hình cánh hoa
chanh khá cầu kỳ, hoa mỹ.
Đồng thời, các loại vật liệu xây dựng thời Trần cũng có đặc
trưng riêng, khác thời Lý. Ví dụ cụ thể là gạch, ngói thời Trần có độ nung cao
hơn, dáng dấp đa dạng hơn, có nhiều viên có chữ “Vĩnh Ninh trường”, tức là nơi
sản xuất loại gạch này thời Trần.
Hoa văn trang trí trên loại gạch lát hay trên loại đầu ngói
lợp diềm mái hoặc lá đề gắn trên thân… tuy vẫn là rồng, phượng hay hoa sen, hoa
cúc nhưng đường nét có phần đơn giản, phóng khoáng và chắc khoẻ hơn thời Lý.
Một số giếng nước thời Trần cũng được tìm thấy ở khu A và
khu D, tiêu biểu là giếng nước ở khu A. Giếng nước này cũng được xây bằng gạch,
nhưng kỹ thuật xây dựng khác hẳn với thời Đại La hay thời Lý là xếp gạch theo
hình xương cá, cho thấy một phong cách mới, khác hẳn các thời kỳ trước và sau
đó (xem Ảnh 7-8).
Có thể nói, kiến trúc thời Trần đã kế thừa xuất sắc khoa học
xây dựng thời Lý và tiếp tục sáng tạo ra phong cách riêng của thời đại mình.
Thông qua những nghiên cứu so sánh, chúng tôi bước đầu đã
làm rõ được chức năng, nét độc đáo của một số loại hình vật liệu kiến trúc
trong Hoàng thành Thăng Long của thời Lý và thời Trần.
Ví dụ nhỏ nêu ra đây là những loại ngói và tượng tròn,
phù điêu trang trí trên mái các cung điện
thời Lý, Trần. Trong đó, đặc sắc nhất là loại ngói ống lợp ở diềm mái, bên trên
có gắn lá đề trang trí hình rồng hoặc chim phượng.
Đây là loại ngói ống có đầu hình tròn, bên trong trang trí nổi
hình rồng uốn lượn hay hình hoa mẫu đơn, hoa cúc, đặc biệt nhiều và phổ biến
hơn là các loại hình hoa sen có các cánh nở xoè ra xung quanh, ở giữa có đài
sen.
Nét độc đáo của loại ngói ống này là phần trên lưng được gắn
hình lá đề có kích thước khá lớn (rộng khoảng 25-28cm và cao khoảng 28-30cm) và
mặt phía trước trang trí nổi hình hai con rồng hoặc hai chim phượng đối xứng
nhau, thể hiện công phu và mang tính nghệ thuật cao.
Qua nghiên cứu so sánh với tất cả các loại ngói ống lợp mái
cung điện ở các kinh đô cổ trung đại của Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc… có thể
nói đây là loại ngói độc đáo nhất trong khu vực châu Á, mang bản sắc riêng của
nghệ thuật kiến trúc cổ Việt Nam.
Tại các di tích kinh đô của Trung Quốc, Nhật Bản hay Hàn Quốc
người ta chỉ lợp loại ngói ống có đầu trang trí linh thú hay hoa sen, hoa cúc,
chưa có nơi nào có loại ngói ống gắn lá đề trang trí rồng, phượng như Kinh đô
Thăng Long.
Trên một số loại ngói có đầu tạo hình cánh hoa sen (thuật ngữ
chuyên môn gọi là ngói mũi sen, trên lưng gắn tượng uyên ương hay hình rồng,
phượng nằm trong lá đề lệch.
Đây cũng là loại ngói được đánh giá là đặc sắc, mang phong
cách truyền thống riêng biệt của nghệ thuật kiến trúc Việt Nam thời Lý - Trần.)
trên lưng cũng được gắn lá đề trang trí rồng, phượng giống như loại ngói ống
nêu trên. Bên cạnh những loại ngói độc đáo này, thời Lý - Trần còn có nhiều loại
ngói lợp ở bờ dải hay bờ nóc, gọi chung là ngói úp nóc
Qua nghiên cứu so sánh với tất cả loại ngói từ thời Đại La
(thế kỷ 7-9), thời Đinh - Lê (thế kỷ 10) và sau đó là thời Lê (thế kỷ 15-18) được
đề cập ở phần tiếp theo dưới đây, có thể khẳng định những loại ngói có hình lá
đề gắn trên lưng ngói chỉ xuất hiện và tồn tại trong thời Lý và thời Trần.
Một phát hiện khảo cổ đặc biệt khác tại hố khai quật, đó là dấu tích kiến trúc thời Trần (thế kỷ 13 – 14) với nhiều tầng lớp di tích qua các thời kỳ.
Dải nền tranh trí “hoa chanh” - kiểu trang trí đặc trưng và phổ biến của kiến trúc hoàng cung thời Trần thế kỷ 13-14.
2.4. Thời Lê (thế kỷ 15-18)
Tiếp nối thời Trần, sau hai mươi năm kháng chiến chống ngoại
xâm (1407-1427), nhà Lê đã đổi tên Thăng Long thành Đông Đô rồi Đông Kinh và tiếp
tục xây dựng các công trình trên cơ sở Kinh đô Thăng Long thời Lý - Trần.
Mặc dù, các công trình kiến trúc thời Lê đã bị phá huỷ hoàn
toàn bởi do những biến động của Thăng Long vào cuối thế kỷ 18 và khi nhà Nguyễn
tiến hành xây thành Hà Nội vào năm 1803, rồi sau đó người Pháp phá bỏ toà thành
này vào năm 1897, nhưng dấu vết những phần còn lại của các công trình kiến trúc
thời Lê vẫn được tìm thấy khắp nơi trong khu di tích 18 Hoàng Diệu. Ví dụ như dấu
tích sân nền, móng trụ kiến trúc ở phía Đông Khu A.
Tại đây đã tìm thấy ít nhất 2 công trình kiến trúc lớn thời
Lê đã được nhận biết qua hệ thống móng trụ. Ngoài ra, còn các móng trụ kích thước
khá lớn được đầm nén bằng gạch vồ hay là những dấu tích hệ thống đường cống
thoát nước (như ở khu A, D2), dấu tích nền gạch kiến trúc và những chân tảng đá
xanh nằm chồng xếp lên trên dấu tích đường hoa chanh thời Trần ở khu vực hố D2…
Ngoài dấu tích kiến trúc, hàng vạn viên gạch vồ, đặc trưng
loại gạch thời Lê được tìm thấy, phản ảnh về mật độ xây dựng các công trình kiến
trúc xưa trong khu vực này là rất lớn. Đặc biệt thời gian này, sử đã ghi chép
có một lực lượng quân đội lớn tham gia xây dựng Kinh đô.
Khu di tích đã tìm thấy rất nhiều loại gạch ghi rõ phiên hiệu
của các đội quân đó như gạch “Võ Kỵ quân”, “Tráng Phong quân”, “Trung Nghĩa
quân”, “Huyền Qua quân”, “Thần Hổ”5…
Vật liệu lợp và trang trí trên mái kiến trúc cung điện từ thời
Lê sơ (thế kỷ 15-16) về sau đã có sự khác biệt rất rõ ràng so với thời Lý, Trần.
Các loại ngói truyền thống thời Lý, Trần có gắn hình lá đề hay tượng uyên ương
như phân tích ở trên không còn tồn tại nữa, thay vào đó là những loại hình ngói
mới.
Đó là sự xuất hiện nhiều loại ngói tráng men màu vàng (hoàng
lưu ly), màu xanh lục (thanh lưu ly), trong đó đặc sắc là loại ngói ống (ngói
dương), ngói trích thuỷ (ngói âm) lợp ở diềm mái có trang trí hình rồng chân có
5 móng biểu hiện quyền lực tối cao của nhà vua.
Tại khu di tích cũng đã tìm thấy những di vật ghi rõ tên một
số cung điện ở đây như mảnh ngói ghi chữ “Kim Quang điện”, mảnh gốm men ghi chữ
“Trường Lạc cung” xác nhận sự tồn tại các cung điện lớn trong Cấm thành Thăng
Long từng được sử cũ ghi lại (6).
Các giếng nước thời Lê kèm theo các công trình kiến trúc
cũng được tìm thấy, trong đó có loại được xây gạch vồ, có loại được xây bằng đá
kết hợp với gạch ngói vỡ.
Thời Lê cũng là thời kỳ ao hồ được đào nhiều nhất. Tất cả
các khu A, B, C, D đều thấy rõ hiện tượng này. Các ao hồ đó tiếp nối truyền thống
đào ao hồ trong cung cấm của thời Lý - Trần, các đường sông làm hào nước và
thoát nước tạo nên một đặc trưng khá đặc biệt cho cấu trúc đô thành Thăng Long
mà nhiều nhà nghiên cứu quen gọi là “đô thị sông hồ”.
Đáng lưu ý là sự xuất hiện dòng sông nhỏ tìm thấy ở giữa khu
A-B cho thấy rõ đã có sự thay đổi lớn trong qui hoạch cảnh quan đô thị của thời
Lê sơ so với thời Lý, Trần. Dấu tích dòng sông được nhận biết rõ ràng và đáng
lưu ý hơn nữa là việc tìm thấy dấu tích con thuyền gỗ, có mái chèo bằng gỗ sơn
son thếp đỏ.
Tư liệu này là bằng chứng cho thấy phương tiện đi lại trong
Hoàng thành và ghi chép của sử cũ về những chuyến du ngoạn bằng thuyền của nhà
vua trong Kinh thành. Cũng bên thềm sông còn tìm được những cánh cửa gỗ hay cột
gỗ được sơn son thếp màu đỏ tươi, minh chứng rõ rằng các kiến trúc cung điện
xưa ở đây từng được sơn màu đỏ.
Cùng những phát hiện quan trọng nói trên, khu di tích tìm được
rất nhiều đồ gốm sứ cao cấp thời Lê sơ, trong đó có những đồ ngự dụng dành
riêng cho nhà vua, được nhận biết rõ qua những đồ án mang tính vương quyền, bao
gồm hình rồng và chim phượng (xem Ảnh 11-12).
Rất nhiều loại gốm hoa lam cao cấp và gốm vẽ nhiều mầu trên
men, trong đó có những loại được dát bằng vàng của thời Lê sơ được tìm thấy
trong các hố đào ở khu A hay khu vực lòng sông. Trong số đó có nhiều loại giống
với đồ gốm cao cấp đã được tìm thấy trên con tàu đắm Cù Lao Chàm thế kỷ 15.
Tại nhiều di tích trên đất liền ở những nước tiêu thụ như
Philippines, Indonesia, Nhật Bản, Tây Á, Ai cập người ta đã tìm thấy những đồ gốm
hoa lam và vẽ màu cao cấp của Việt Nam giống như đồ gốm đào được ở Thăng Long.
Theo nghiên cứu của chúng tôi thì những đồ gốm cao cấp đó đều
là sản phẩm của lò Thăng Long. Bằng chứng này cho thấy vào thế kỷ 15 có một tuyến
đường xuất khẩu hàng hóa từ Thăng Long đến nhiều nước trên thế giới.
Chúng ta nhớ lại bối cảnh rằng, vị trí địa lý gần cảng thị
cho phép Thăng Long có điều kiện tiếp xúc với các nền văn hóa như Trung Quốc, Ấn
Độ, Tây Á và Nhật Bản qua hệ thống đường thuỷ.
Và theo đó, thông qua các tuyến đường thương mại xuyên qua đất
nước Trung Hoa và đường biển từ Thái Bình Dương đến Ấn Độ Dương, mối giao lưu
kinh tế, văn hoá của Thăng Long – Hà Nội vươn đến tận các nền văn minh vùng
Trung Cận Đông xa xôi.
Phát hiện về những mảnh bình gốm xốp, có men xanh lam vùng
Tây Á như đã giới thiệu từ phần đầu của bài viết này là bằng chứng cho thấy rõ
sự giao lưu thương mại giữa Tây Á với vùng đất An Nam đô hộ phủ vào thế kỷ thứ
9, qua con đường tơ lụa trên biển.
Đặc biệt, từ thế kỷ 15 đến thế kỷ 17, giao lưu giữa Thăng
Long với các nước ngày càng được mở rộng và phát triển. Thuyền buôn nhiều nước
đến Thăng Long. Thương cảng Thăng Long - Kẻ Chợ, người phương Tây gọi là
Kacho/Chacho, hoạt động tấp nập với sự tham gia của Công ty Đông Ấn Hà Lan và
Anh. Trong bối cảnh đó, nhiều loạigốm cao cấp của Thăng Long đã được xuất khẩu
sang nhiều nước trong khu vực Đông Nam Á, Đông Á và Trung Cận Đông7.
Nền gạch thời Lê Sơ (thế kỷ 15 - 16) - Vị trí này nằm trong dấu tích hành lang phía Tây, thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17- 18). Hành lang bắt đầu từ Đoan Môn kéo dài sang phía Tây rồi bắt góc chạy lên phía Bắc bao quanh sân Đan Trì và điện Kính Thiên.
Cống nước thời Lê Sơ, thế kỷ 15 - 16.
Dấu tích đường đi (thời Lê Trung Hưng, thế kỷ 17 - 18), xuất lộ ở phía Nam, dẫn lên kiến trúc hành lang, có chiều dài 5m, rộng 1,3m. Mặt đường lát gạch vồ, cao ở giữa, vát sang 2 bên, góc đường xây vát góc tạo thẩm mỹ cho công trình.
Sân gạch thời Lê Trung Hưng (thế kỷ 17).
Phát hiện mới nhất gần đây về mảnh gạch men trang trí trên
tường tại khu di tích giống như những loại gạch của Việt Nam thế kỷ 15 gắn trên
tường các nhà thờ Hồi giáo ở miền Đông Java là bằng chứng sinh động về mối quan
hệ giữa Thăng Long với các vương quốc Hồi giáo ở Indonesia đương thời.
Dấu tích cống nước ngang theo chiều Đông - Tây, thoát nước cho sân Đan Trì và các kiến trúc lớn trong khu vực điện Kính Thiên. Căn cứ vào địa tầng và vật liệu, cống nước xây dựng vào thời Lê Sơ (thế kỷ 15). Đến thế kỷ 17, thời Lê Trung Hưng đã sửa lại, xây thành cống cao hơn và đặt các phiến đá làm nắp cống.
3. Thay lời kết
Như vậy, phát hiện khảo cổ học tại khu di tích 18 Hoàng Diệu
cho chúng ta những minh chứng không thể phủ nhận đây là vị trí quan trọng của Cấm
thành Thăng Long.
Tại khu di tích này, mặc dù chỉ tìm thấy những phần còn lại
của những tòa nhà kiên cố được thể hiện rõ qua dấu tích nền móng các công trình
kiến trúc gỗ có qui mô lớn cùng hệ thống cống nước, giếng nước, đường đi lối lại,
các hiện vật kiến trúc, đồ gốm sứ, đồ sành, vũ khí và đồ trang sức phần nhiều
mang dấu ấn của từng triều đại hoặc những ký hiệu biểu trưng cho Hoàng cung.
Điều đó khẳng định khu vực này từng là địa điểm của một
trung tâm quyền lực chính trị quan trọng.
Mặt khác, những dáng vẻ huy hoàng của các kiến trúc trong
Hoàng thành Thăng Long xưa tuy không còn tồn tại đến ngày nay, nhưng phát hiện
dưới lòng đất của khảo cổ học tại khu trung tâm Cấm thành là minh chứng thuyết
phục rằng, các cung điện, lầu gác trong Hoàng thành Thăng Long vốn từng được
xây dựng rất công phu, tráng lệ.
Một số lượng lớn các loại hình di vật như phù điêu, tượng
tròn và ngói lợp mái trang trí rồng, phượng được tìm thấy ở đây cho thấy kiến
trúc Hoàng thành Thăng Long được thiết kế với sự phô bày vẻ đẹp rực rỡ, áp đảo
bởi những đồ án trang trí mang tính vương quyền nhằm thể hiện sự oai nghiêm, đường
bệ của hoàng đế.
Đồng thời điều đó cũng phản ánh sinh động rằng, đây vừa là
trung tâm hành chính của các vương triều, vừa là cung cấm của các hoàng đế nhà
Lý, Trần, Lê kế tiếp nhau trị vì đất nước8.
Tuy nhiên, quần thể các dấu tích kiến trúc đó chỉ là một phần
rất nhỏ trong khu trung tâm rộng lớn của Hoàng thành Thăng Long, thuộc phía Tây
của điện Kính Thiên.
Tóm lại, giá trị nổi bật và tính độc đáo của khu di tích này
là có nhiều tầng văn hoá của nhiều thời kỳ nằm chồng xếp, đan xen nhau, tiếp nối
nhau liên tục không đứt đoạn, gồm: các di tích kiến trúc thời Đại La (thế
kỷ 7 - 9), các di tích kiến trúc thời Lý và thời Trần (thế kỷ 11 - 14), các di
tích kiến trúc thời Lê (thế kỷ 15 - 18), các dấu tích cảnh quan: sông ngòi, ao,
hồ…
Các di tích đó có mối quan hệ và sự liên kết lẫn nhau, tạo
thành một tổng thể liên hoàn rất phức tạp, nhưng rất phong phú và hấp dẫn, phản
ánh rõ mối quan hệ về qui hoạch đô thị và không gian kiến trúc, cũng như sự tiếp
nối giữa các triều đại trong lịch sử xây dựng Kinh đô Thăng Long.
Bên cạnh đó, khu di
tích này còn tìm được hàng triệu di vật khảo cổ, trong số đó có nhiều đồ gốm sứ
của Trung Quốc, Nhật Bản, Tây Á minh chứng rõ mối quan hệ, sự giao lưu kinh tế,
văn hoá của Thăng Long trong lịch sử.
1 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb. Khoa học
xã hội, Hà Nội 1998, tr. 240-241.
2 Bùi Minh Trí 2006: Gốm Islam - Bằng chứng giao lưu giữa
Tây Á và An Nam đô hộ phủ, trong Những phát hiện mới của khảo cổ học.
3 Tống Trung Tín, Trần Anh Dũng 1999: Kết quả thám sát và
khai quật di tích cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) 1998, trong Khảo cổ học, số 4.
4 Đại Việt sử ký toàn thư, Tập 1, Nxb. Khoa học xã hôi, Hà Nội,
1983, tr. 259-260.
5 Đỗ Văn Ninh 2002: Những viên gạch kể chuyện mình, trong
Hoàng thành Thăng Long, Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr. 139-159.
6 Trường Lạc là một cung rất lớn và quan trọng trong Cấm
thành. Đây là cung riêng của Thái Hoàng Hậu Nguyễn Thị Hằng, vợ vua Lê Thánh
Tông (1467-1495).
7 Bùi Minh Trí 2001: Vietnamese Blue and White Ceramics,
Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội và Bùi Minh Trí 2005: Nét đẹp của đồ gốm sứ trong
Hoàng cung Thăng Long, trong Hoàng thành Thăng Long, Nxb. Văn hoá Thông Tin,
tr. 65-97.
8 Tống Trung Tín - Bùi Minh Trí 2006: Về một số dấu tích kiến
trúc trong Cấm thành Thăng Long thời Lý – Trần qua kết quả nghiên cứu Khảo cổ học
năm 2005 - 2006, Khảo cổ học số 1.
Tài liệu Tham khảo
1.
Bùi Minh Trí, 2001: “Gốm hoa lam Việt
Nam - Vietnamese Blue and White Ceramics”, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
2.
Bùi Minh Trí, 2006: Nét đẹp đồ gốm Hoàng cung Thăng Long, Hoàng thành Thăng Long, Nxb. Văn hoá
Thông tin, Hà Nội, tr. 66-98.
3. China Cultural
Heritage,
N0.1-4, 2004.
4. Đại Việt sử ký toàn thư, Tập I. Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 1983, 1998.
5. Đỗ Văn Ninh, 2006: Những viên gạch kể chuyện mình, Hoàng thành Thăng Long, Nxb. Văn hoá
thông tin, Hà Nội, tr. 139-159.
6.
Đỗ Văn Ninh, 2006: Trường Lạc cung của Thái hoàng Thái Hậu, Hoàng thành Thăng Long, Nxb. Văn hoá
Thông tin, Hà Nội, tr. 51-63.
7. Phạm Hân, 1990: Tìm
lại dấu vết thành Thăng Long, Nxb. KHXH, Hà Nội.
8. Phan Huy Lê, 2006: Vị trí khu di tích khảo
cổ học 18 Hoàng Diệu trong cấu trúc thành Thăng Long - Hà Nội qua các thời kỳ lịch sử. Khảo cổ học, số 1, tr. 5-28.
9.
The breath of Silla for 1 thousand years - Archaeological
Excavation for 32 years, Gyeong-ju National Research Institute of Cultural
Heritage, 2005.
10. Tống Trung Tín, Trần Anh Dũng 1999: Kết quả thám sát và khai quật di tích
cố đô Hoa Lư (Ninh Bình) 1998, Khảo cổ
học, số 4.
11. Tống Trung Tín, Nguyễn Hồng Kiên, 2006: Những dấu tích cung điện xưa, Hoàng thành Thăng Long, Nxb. Văn hoá
Thông tin, Hà Nội, tr. 100-125.
12. Tống Trung Tín, Bùi Tuyết Mai, 2006: Cấm thành - Hoàng thành qua các cuộc
khai quật, Hoàng thành Thăng Long,
Nxb. Văn hoá Thông tin, Hà Nội, tr. 13-29.
13. Tống Trung Tín - Bựi Minh Trí, 2006: Về một số dấu tích kiến trúc trong cấm thành thăng long thời Lý -
Trần qua kết quả nghiên cứu khảo cổ học năm 2005 - 2006, Khảo cổ học, số 1.