Việt Nam có nhiều tiềm năng về cảnh quan thiên
nhiên, giá trị về lịch sử, văn hóa bản địa của các dân tộc, tập tục và
lối sống, văn hóa ẩm thực phong phú của các vùng miền là cơ sở để phát
triển mạnh loại hình du lịch cộng đồng.
Khách du lịch trải nghiệm đánh bắt cá bằng nơm theo
cách truyền thống tại Khu du lịch làng quê Yên Đức (Đông Triều, Quảng Ninh)
Du lịch cộng đồng thường được hiểu là hoạt động của một cộng
đồng dân cư tham gia làm du lịch. Hoạt động này bắt đầu là tự phát ở những nơi
có các danh lam thắng cảnh, di tích lịch sử hấp dẫn du lịch mà dân cư tại chỗ
tham gia vào phục vụ nhu cầu của du khách. Một thực tế thường diễn ra là các
doanh nghiệp đưa/dẫn khách đến phần lớn là khai thác tiềm năng địa phương chứ
chưa chú trọng đến lôi kéo cộng đồng cư dân địa phương cùng làm du lịch. Khi
phân chia lợi ích, đôi khi quyền lợi giữa doanh nghiệp và cộng đồng không thống
nhất, phần thiệt thòi thường thuộc về phía cộng đồng, dẫn đến bất trắc và làm
cho du khách không hài lòng.
Để phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững rất cần
phải phát huy được yếu tố tích cực, hạn chế và giảm thiểu mặt tiêu cực. Muốn vậy
cần phải có chiến lược phát triển du lịch theo hướng bền vững, chú trọng tăng
cường tính văn hóa trong hoạt động du lịch. Định hướng đúng đắn phát triển du lịch
nói chung và từng địa phương nói riêng dưới góc độ này là tập trung phát triển
du lịch cộng đồng theo hướng du lịch văn hoá, lịch sử, sinh thái; nhằm đạt đồng
thời hiệu quả kinh tế và xã hội, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội, bảo vệ được môi trường, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc. Hoạt
động du lịch cộng đồng phải làm giàu thêm bản sắc và truyền thống dân tộc, làm
đẹp thêm cảnh quan môi trường, ngăn chặn không cho các tiêu cực và tệ nạn xã hội
xâm nhập vào hoạt động kinh doanh.
1. Du lịch cộng đồng
1.1. Quan niệm
Quan niệm về du lịch cộng đồng được đưa ra khác nhau do vị
trí của du lịch dựa vào cộng đồng tùy theo góc nhìn, quan điểm nghiên cứu. Theo
Nicole Hausle và Wolffgang Strasdas (2009) cho rằng: “Du lịch cộng đồng là mô
hình phát triển du lịch trong đó chủ yếu là người dân địa phương đứng ra
phát triển và quản lý. Lợi ích kinh tế có được từ du lịch sẽ đọng lại nền kinh
tế địa phương”. Quan niệm trên nhấn mạnh đến vai trò chính của người dân địa
phương trong vấn đề phát triển du lịch ngay trên địa bàn quản lý.
Viện Miền núi cho rằng: “Du lịch cộng đồng là nhằm bảo tồn
tài nguyên du lịch tại điểm du lịch đón khách vì sự phát triển du lịch bền vững
dài hạn. Du lịch cộng đồng khuyến khích sự tham gia của người dân địa phương
trong du lịch và có cơ chế tạo các cơ hội cho cộng đồng. Du lịch cộng đồng là một
quá trình tương tác giữa cộng đồng (chủ) và khách du lịch mà sự tham gia có ý
nghĩa của cả hai phía mang lại các lợi ích kinh tế, bảo tồn cho cộng đồng và
môi trường địa phương”
Có thể khái quát, du lịch cộng đồng là một mô hình
phát triển du lịch, trong đó cộng đồng dân cư là người cung cấp các
sản phẩm dịch vụ cho khách du lịch. Cộng đồng dân cư cũng chính là
người có trách nhiệm bảo vệ tài nguyên du lịch và họ được chia sẻ
các nguồn lợi kinh tế do phát triển du lịch tạo ra. Phát triển du
lịch cộng đồng sẽ tạo ra thêm công ăn việc làm và tăng thêm thu nhập
cho cộng đồng dân cư bản địa, góp phần cho việc xóa đói giảm nghèo
của địa phương.
Xét về bản chất, du lịch cộng đồng là một loại hình du lịch
do chính cộng đồng người dân phối hợp tổ chức, quản lý và làm chủ để đem lại lợi
ích kinh tế và bảo vệ được môi trường chung, thông qua việc giới thiệu với du
khách các nét đặc trưng của địa phương (phong cảnh, văn hoá…). Mô hình du lịch
cộng đồng tạo điều kiện cho du khách trải nghiệm cuộc sống của người dân bản địa
với những sinh hoạt rất đời thường và những món ăn dân dã đậm chất địa phương.
Ngoài ra, mô hình du lịch bền vững này góp phần thúc đẩy các chiến lược xóa đói
giảm nghèo, tạo ra sinh kế đồng thời khuyến khích vai trò của người dân bản địa
trong việc hình thành các sản phẩm du lịch đặc trưng và bảo tồn, phát huy các
giá trị truyền thống văn hóa cũng như các di sản thiên nhiên tại địa phương.
Đặc điểm của du lịch cộng đồng như sau:
1) Du lịch cộng đồng đảm bảo văn hoá, thiên nhiên bền vững:
Du lịch cân bằng với các tiêu chuẩn kinh tế, văn hoá xã hội và môi trường; nguồn
tài nguyên thiên nhiên và văn hoá được khai thác hợp lý; bảo vệ môi trường sinh
thái cảnh quan; bảo tồn được môi trường văn hoá. Du lịch cộng đồng là cách tốt
nhất vừa làm du lịch vừa giữ gìn bản sắc văn hoá, sử dụng dịch vụ tại chỗ,
phát triển văn hoá, tôn trọng văn hoá địa phương, du lịch cộng đồng thúc đẩy
nghề nghiệp truyền thống phát triển và giữ gìn bản sắc văn hoá; cần có người
dân địa phương tham gia để dân có ý thức bảo vệ tài nguyên môi trường, giáo dục
nâng cao nhận thức bảo vệ môi trường sinh thái, bản sắc văn hoá, vệ sinh cộng đồng.
2) Du lịch cộng đồng cần có sở hữu cộng đồng: Cộng đồng
là chủ thể quản lý di sản dân tộc, có phong cách và lối sống riêng cần được tôn
trọng; cộng đồng có quyền sở hữu các tài nguyên và do vậy có quyền tham gia vào
các hoạt động du lịch.
3) Thu nhập từ du lịch cộng đồng cần giữ lại cho cộng đồng:
Lợi nhuận thu được từ du lịch được chia sẻ công bằng cho cộng đồng để bảo vệ
môi trường; cộng đồng thu lợi nhuận và lợi ích kinh tế trực tiếp để tái đầu tư
cho địa phương ngoài hỗ trợ của Chính phủ.
4) Du lịch cộng đồng góp phần nâng cao nhận thức cho cộng đồng:
Nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, bảo vệ môi trường và bảo tồn hệ sinh
thái; nâng cao ý thức bảo vệ di sản văn hoá cộng đồng, chống các trào lưu du
nhập.
5) Du lịch cộng đồng cần tăng cường quyền lực cho cộng đồng:
Du lịch cộng đồng là do cộng đồng tổ chức quản lý; du lịch cộng đồng là thúc đẩy,
tạo cơ hội cho cộng đồng tham gia nhiệt tình vào phát triển du lịch; cộng đồng
dân cư được trao quyền làm chủ, thực hiện các dịch vụ và quản lý phát triển du
lịch.
6) Du lịch cộng đồng cần tăng cường hỗ trợ của các tổ chức
phi chính phủ và cơ quan nhà nước: Hỗ trợ kinh nghiệm và vốn đầu tư; hỗ trợ về
cơ sở vật chất và ưu tiên về các chính sách cho cộng đồng trong việc phát triển
du lịch và phát triển cộng đồng.
Hiện nay có nhiều tên gọi khác nhau có liên quan đến du lịch
cộng đồng như: Du lịch dựa vào cộng đồng (Community-Based Tourism); Phát triển
cộng đồng dựa vào du lịch (Community-Development in Tourism); Du lịch sinh thái
dựa vào cộng đồng (Community-Based Ecotourism); Du lịch có sự tham gia của cộng
đồng (Community-Participation in Tourism); Du lịch núi dựa vào cộng đồng
(Community-Based Mountain Tourism). Tuy tên gọi khác nhau nhưng có một số vấn
đề cơ bản giống hoặc tương đồng về phương pháp tổ chức, địa điểm, mục tiêu vị
trí tổ chức phát triển du lịch và cộng đồng.
1.2. Tác động của du lịch lên cộng đồng
1.2.1. Tác động theo hướng tích cực
Trong sự phát triển, văn hoá xã hội của các vùng, miền, các
dân tộc, các khu vực có sự giao lưu, thâm nhập, giao thoa với nhau. Bên cạnh sự
giao lưu ngày càng tăng giữa các nền văn hoá thế giới nhờ vào sự phát triển của
giao thông, thông tin liên lạc, ngoại giao và thương mại, thì hoạt động du lịch
thúc đẩy hoạt động giao lưu văn hoá một cách trực tiếp nhất và nhanh nhất. Như
vậy, du lịch là một hoạt động văn hoá mang tính tổng hợp và xã hội hoá cao. Mọi
hoạt động của nó đều theo đuổi hoặc chứa đựng một loại hình, một hình thức văn
hoá nào đó. Dù ý thức, hoặc vô thức từ phía người làm du lịch, từ phía cộng đồng,
văn hoá đều phải xuyên suốt các mặt hoạt động của du lịch. Các nhu cầu du lịch
chủ yếu bao gồm đi lại, ăn uống, lưu trú, mua sắm, tham quan, vui chơi giải trí
đều chứa đựng đặc trưng văn hoá. Trong ăn uống, lưu trú, đi lại, mua sắm không
chỉ đáp ứng nhu cầu sinh hoạt bình thường mà còn là sự khám phá, thưởng thức,
trải nghiệm; tham quan và vui chơi giải trí là nhu cầu đặc trưng của chuyến đi
du lịch càng thể hiện rõ nét hơn tính văn hoá. Tất cả các dịch vụ và hàng hoá
du lịch (trong đó đặc biệt là hàng lưu niệm) đáp ứng được các nhu cầu này có
giá trị đối với khách du lịch ở chỗ nó thoả mãn được các nhu cầu tìm đến cái mới,
cái khác biệt của nơi du lịch so với nơi ở thường ngày của du khách.
Ai cũng biết rằng, du lịch tuy phải lấy kinh tế làm cơ sở; sự
phát triển kinh tế tạo nên cơ sở vật chất kỹ thuật cho các hoạt động du lịch và
bản thân du lịch cũng bao hàm nội dung hoạt động kinh tế, nhưng nhìn tổng thể
và xét cho đến cùng thì du lịch là một hoạt động văn hoá. Tính văn hoá của du lịch,
hay nói gọn là văn hoá du lịch, không phải là phép cộng đơn thuần giữa văn hoá
với du lịch mà là hình thái văn hoá trong lĩnh vực du lịch, có nội dung xác định.
Văn hoá du lịch là do hoạt động du lịch, một hình thức hoạt động văn hoá xã hội
đặc thù, sinh ra hoặc liên quan mật thiết với nó; văn hoá du lịch sẽ phát triển
cùng với sự phát triển của du lịch. Văn hoá du lịch là một thuật ngữ đa nghĩa
và sẽ được hiểu rất khác nhau nếu xem xét từ nhiều khía cạnh. Ở chừng mực nào
đó có thể hiểu văn hoá du lịch là tổng hoà của văn hoá vật chất và văn hoá tinh
thần do loài người tạo nên; là văn minh tinh thần và văn minh vật chất liên
quan mật thiết đến hoạt động du lịch của nhân loại.
Văn hoá du lịch được hình thành do sự tác động lẫn nhau giữa
các thành phần tham gia vào hoạt động du lịch, bao gồm tài nguyên du lịch,
khách du lịch, dân cư nơi khách đến, chính quyền địa phương và doanh nghiệp du
lịch. Trong đó, khách du lịch là trung tâm tạo ra sự tác động, tài nguyên du lịch
là đối tượng với sức thu hút du lịch ban đầu và các thành phần còn lại tạo ra
điều kiện đủ để phát triển du lịch và có văn hoá du lịch.
Trong thời gian đi du lịch, khách thường sử dụng các dịch vụ,
hàng hoá và thường tiếp xúc với dân cư địa phương. Thông qua giao tiếp đó, văn
hoá của cả khách du lịch và của cộng đồng dân cư nơi khách đến được trau dồi và
nâng cao. Du lịch tạo khả năng cho con người mở mang, tăng cường sự hiểu biết về
lịch sử truyền thống, văn hoá, phong tục tập quán, đạo đức, chế độ xã hội,...
làm giàu thêm khả năng thẩm mỹ, tôi luyện tình cảm, thoải mái tinh thần khi được
tham quan kho tàng văn hoá mỹ thuật của một đất nước, một vùng, một địa phương,
một cộng đồng. Trong quá trình du lịch, con người không ngừng quan sát, thẩm nhận,
hấp thụ quan điểm, lối sống.
Du lịch còn là phương tiện giáo dục lòng yêu nước, giữ gìn
và nâng cao truyền thống dân tộc. Thông qua chuyến đi du lịch mà con người
được làm quen với cảnh đẹp, với lịch sử, văn hoá dân tộc, qua đó càng thêm yêu
đất nước mình; cộng đồng dân cư địa phương cũng thấy được sự hấp dẫn của văn
hoá bản địa, nhận thức ngày một sâu sắc việc bảo tồn di sản văn hoá vật thể và
phi vật thể địa phương mình, góp phần khai thác, bảo tồn các di sản văn hoá dân
tộc, bảo vệ và phát triển môi trường tự nhiên và xã hội. Du lịch quốc tế có vai
trò quan trọng trong giáo dục tinh thần quốc tế, làm cho mọi người thấy cần thiết
phải phát triển và củng cố các mối quan hệ quốc tế, làm cho các dân tộc gần gũi
nhau hơn, góp phần bình thường hoá quan hệ, giữ gìn, củng cố hoà bình và tăng
thêm tình hữu nghị giữa các dân tộc, tăng cường sự hợp tác, hội nhập trên mọi
lĩnh vực vì lợi ích phát triển chung.
Ngoài góc nhìn từ phía tiêu dùng du lịch, giao lưu văn hoá
trong du lịch cũng được hình thành và thúc đẩy thông qua “sản xuất” du lịch, tức
là tạo ra cung du lịch trên thị trường. Sự khai thác tài nguyên du lịch,
việc xây dựng các công trình du lịch đã phản ánh trí tuệ và sức sáng tạo của
loài người. Trong quá trình toàn cầu hoá, một mặt phải giữ gìn bản sắc trong hoạt
động du lịch để có cái riêng của mình, ngành Du lịch ở tất cả nước, các vùng,
các địa phương, các cộng đồng đều phải tiếp thụ có chọn lọc kinh nghiệm phát
triển du lịch và tinh hoa văn hoá thế giới, của trong hoạt động du lịch,
từ xây dựng đến vận hành các cơ sở kinh doanh du lịch đều có sự đan xen,
khu vực hóa và toàn cầu hoá cái đẹp, cái hay của các nền văn minh thế giới.
Du lịch hiện nay trở thành hiện tượng phổ biến đã tạo ra
dòng người “dịch chuyển” trên thế giới mỗi ngày khoảng 3 triệu lượt khách du lịch
quốc tế (nếu tính cả khách du lịch nội địa thì con số là sẽ tăng lên 10 lần).
Chính dòng khách du lịch ấy đã thúc đẩy sự lưu chuyển của thông tin, tri thức,
khoa học, công nghệ, vốn liếng về du lịch và liên quan với du lịch, cũng như của
các lĩnh vực khác, tạo ra sự đổi mới về cách nhìn, đổi mới quan niệm về nhiều mặt,
kể cả quan niệm về văn hoá. Đến lượt mình, dòng lưu chuyển này tác động trực tiếp
đến giao lưu kinh tế, rõ nhất là trong kinh tế đối ngoại, để tạo cơ sở vật chất
và điều kiện cho giao lưu văn hoá. Sự giao lưu thông qua du lịch có một ý nghĩa
tích cực đối với giao lưu kinh tế, văn hoá, khoa học kỹ thuật giữa các quốc
gia, thậm chí có trường hợp còn tiện lợi và hiệu quả hơn so với giao lưu theo
con đường chính thức.
1.2.2. Tác động theo hướng tiêu cực
Ảnh hưởng tiêu cực cần nói đến trước tiên là tác động của nó
đến môi trường, cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội, tức là gây ra ô
nhiễm môi trường, thể hiện rõ nhất là ở những nơi khách đến. Dòng khách
du lịch tăng lên nếu không quản lý tốt sẽ dẫn đến thương mại hoá, tầm thường
hoá văn hoá bản địa và văn hoá dân tộc để kiếm tiền được nhanh, rõ nhất trong
việc tổ chức lễ hội bất cứ lúc nào và bất cứ ở đâu; sự phỏng cổ tuỳ tiện trong
kiến trúc, trong biểu diễn, trong tôn tạo duy tu bảo dưỡng các di tích không
theo nguyên bản. Sự thương mại hoá, tầm thường hoá văn hoá chỉ có thể mua vui
cho khách trong chốc lát, nhưng lại gây ra sự thương tổn nghiêm trọng lòng tự
tôn dân tộc đối với nền văn hoá của mình, sớm hay muộn sẽ dẫn đến suy giảm lòng
mến khách và sự phát triển bền vững của du lịch. Các vấn đề khác cũng rất cần
quan tâm là sự lai căng văn hoá, sự bắt chước lối sống của du khách muôn
phương, sự sa sút quan niệm đạo đức truyền thống dẫn đến băng hoại đạo đức...
Phát triển du lịch không được quản lý tốt sẽ làm ô nhiễm môi
trường tự nhiên do khai thác quá tải tài nguyên du lịch tự nhiên, dẫm đạp lên cây
cỏ, bẻ hái thực vật quý hiếm, ăn và mua động vật quý hiếm, xả rác và nước thải,
gây tiếng ồn, sử dụng quá mức nước sạch, không khí sạch, làm biến động hệ sinh
thái, nhất là giảm thiểu tính đa dạng sinh thái khi du lịch phát triển, số lượng
du khách tăng lên quá tải…
Sẽ là sai lầm nếu chỉ nhìn thấy mặt tích cực của du lịch
trong việc hình thành, phát triển và thúc đẩy giao lưu văn hoá, mà coi nhẹ mặt
tiêu cực phát sinh đi liền với hoạt động du lịch. Tuy nhiên, cần phải khẳng định
ở đây là những mặt tiêu cực này không phải là bản chất vốn có của du lịch,
không phải cứ phát triển du lịch là sẽ gây ra những ô nhiễm môi trường, những
tiêu cực nêu trên, mà do sự quản lý kém hiệu quả sẽ dẫn tới hậu quả du lịch là
mảnh đất thuận lợi để cho các mặt tiêu cực hình thành và phát triển. Không vì ảnh
hưởng tiêu cực đi liền với du lịch mà hạn chế sự nghiệp phát triển du lịch. Mấu
chốt của vấn đề là làm sao nhìn rõ các ảnh hưởng tiêu cực để kiểm soát, giảm
thiểu nó.
1.3. Phát triển du lịch cộng đồng theo hướng bền vững
Phát triển du lịch cộng đồng với mục tiêu xóa đói giảm nghèo
dứt khoát phải theo hướng bền vững. Phát triển bền vững suy cho cùng là sự phát
triển nhằm đáp ứng các nhu cầu của hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng
đáp ứng các nhu cầu của các thế hệ mai sau. Trên thực tế, điều này đang trở nên
cấp thiết và thường được nói tới khi muốn nhấn mạnh đến việc sử dụng có trách
nhiệm các nguồn tài nguyên du lịch. Trong du lịch cộng đồng sự lựa chọn bắt
buộc là phải sử dụng có trách nhiệm các nguồn tài nguyên du lịch tự nhiên và
nhân văn. Quá trình phát triển du lịch cộng đồng phải được định hướng và quản
lý theo một phương châm: Kết hợp hài hoà nhu cầu của hiện tại và tương lai trên
cả hai góc độ tổ chức, sản xuất du lịch và tham gia tiêu dùng du lịch, nhằm
đạt tới một mục đích bảo tồn, tái tạo và phát triển được tài nguyên tự nhiên,
giữ gìn và phát huy được bản sắc văn hoá dân tộc và hồn cốt linh thiêng của
truyền thống.
Điều cốt lõi của bền vững là sự cân bằng: Cân bằng giữa cung
và cầu cả trong hiện tại và tương lai, thể hiện nổi bật là yếu tố sức chứa; cân
bằng giữa số lượng và chất lượng của sự phát triển; cân bằng giữa thu hút khách
du lịch quốc tế và khách du lịch nội địa trong những giai đoạn nhất định; cân bằng
giữa khai thác và bảo vệ, phát triển nguồn tài nguyên du lịch lễ hội; cân bằng
giữa yêu cầu phát triển và khả năng quản lý, trong đó số lượng và chất lượng
nguồn nhân lực tổ chức lễ hội và hoạt động du lịch đóng vai trò then chốt; cân
bằng hoạt động du lịch về mặt thời gian và không gian; cân bằng giữa chi phí và
lợi ích... Những vấn đề này không phải lúc nào cũng có thể thực hiện được vì
thường bị sức ép của lợi ích trước mắt. Đây là những nguyên tắc khi phát triển
du lịch cộng đồng góp phần xóa đói giảm nghèo phải tuân thủ nghiêm ngặt.
(Còn nữa)
TS. Đoàn Mạnh Cương
Vụ Đào tạo, Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch