TCDL - Báo cáo “Xu hướng du lịch Mê Công – Chuyên đề ngành hàng không khu vực” đã được công bố ngày 10/10/2017 trong Hội thảo về Xu hướng phát triển ngành hàng không trong Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS) diễn ra tại Băng Cốc, Thái Lan.
Trong
báo cáo, Việt Nam nổi lên là điểm nhấn với thành phố Hồ Chí Minh và Hà
Nội trở thành 2 trong 4 trung tâm, cửa ngõ chính của khu vực. Vietnam
Airlines và VietJet Air đang cạnh tranh mạnh mẽ với các hãng hàng không
Thái Lan tại thị trường khu vực. Bài viết này giới thiệu, phân tích một
số nội dung chính của báo cáo nêu trên.
1.
Khái quát thực trạng hàng không GMS: vai trò trung chuyển của Hà Nội,
thành phố Hồ Chí Minh và vị trí của Vietnam Airlines và VietJet Air
trong khu vực
Ngành
hàng không khu vực Tiểu vùng sông Mê Công mở rộng (GMS), gồm 6 nước
Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma, Việt Nam, Thái Lan và Trung Quốc (tỉnh
Quảng Tây và Vân Nam) đang phát triển mạnh trong những năm qua. Hiện nay
đã có trên 100 sân bay trong Tiểu vùng, phục vụ trên 250 triệu lượt
hành khách (năm 2015). Trong đó, 30 sân bay có các đường bay quốc tế,
hơn 30 sân bay phục vụ trên 1 triệu lượt hành khách mỗi năm.
Đáng
lưu ý, có 4 sân bay có thể được coi là trung tâm trung chuyển khách, là
cửa ngõ đối với khu vực, kết nối với các trung tâm khác của thế giới,
bao gồm Băng Cốc, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và Côn Minh. Ngoài ra,
báo cáo cũng nhấn mạnh 3 hãng hàng không quốc gia tham gia các liên minh
toàn cầu là Thai Airways, Vietnam Airlines và China Eastern Airlines; 2
hãng hàng không giá rẻ có vai trò chi phối thị trường trong khu vực là
Thai AirAsia và VietJet Air; 2 hãng hàng không hoạt động trong cấp độ
nội khu vực là Bangkok Airways và Sichuan Airlines.
Thảo
luận tại Hội thảo, theo ông Joseph Cusmano, đại diện Oman Air tại Thái
Lan, 10 năm trước đây Băng Cốc là trung tâm trung chuyển duy nhất trong
khu vực nhưng đến nay thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội cùng vươn lên
thành các trung tâm kết nối với các điểm đến từ các châu lục khác. Ông
Lê Tuấn Anh, Phó Vụ trưởng Vụ Hợp tác quốc tế, Tổng cục Du lịch Việt Nam
nhấn mạnh sự vươn lên của các điểm đến phụ cận, nhất là tại Việt Nam
như Phú Quốc, Hải Phòng, Ninh Bình, Bình Định… cùng các trung tâm mới
khác như Đà Nẵng, Nha Trang, đồng thời nhấn mạnh vai trò của các hãng
hàng không giá rẻ, nhất là sự vươn lên mạnh mẽ của Vietjet Air trong khu
vực.
Ông
Chattan Kungjara Na Ayudhya, Phó Cục trưởng Cục Xúc tiến Du lịch Thái
Lan (TAT) cho biết trước đây Cục Xúc tiến du lịch Thái Lan chủ yếu hợp
tác với các hãng hàng không quốc gia nhưng hiện nay sự hợp tác mở rộng
đến cả các hãng hàng không giá rẻ do vai trò quan trọng của các hãng
này. Các đại biểu tham dự Hội thảo đều dự báo về sự phát triển mạnh mẽ
của ngành hàng không trong khu vực trong thời gian tới.
2. Hàng không Thái Lan và Việt Nam cạnh tranh phát triển mạnh mẽ
Tổng
năng lực vận chuyển hàng không trong GMS đạt 9,81 triệu ghế vào tháng
7/2016, trong đó Thái Lan chiếm 41,5% số ghế. Tuy nhiên, thị phần của
Thái Lan đã giảm 3 điểm phần trăm trong năm 2016 do mức tăng vọt về số
lượng ghế của các hãng hàng không Việt Nam, nhất là Vietjet Air. Giai
đoạn 7/2015 - 7/2016, tổng số ghế của Việt Nam tăng 35%, thị phần năng
lực vận chuyển trong khu vực đạt 37,7%, tăng 5,4 điểm phần trăm.
Vietnam
Airlines đang ngày càng phát triển mạnh mẽ nhờ nhu cầu đi du lịch nội
địa và quốc tế tăng cao của tầng lớp trung lưu Việt Nam và sự bùng nổ
của khách du lịch quốc tế đến. Năm 2015, Vietnam Airlines phục vụ 17,4
triệu hành khách, tăng 11% so với năm 2014, trong đó có 6 triệu trong
khu vực Đông Nam Á. Hãng thực hiện 127.500 chuyến bay trong năm 2015,
tăng 3,5% so với năm 2014, tỷ lệ ghế được lấp đầy là 80%.
Vietnam
Airlines hiện nay cạnh tranh mạnh mẽ với Thai Airways trong khu vực.
Năm 2016, Vietnam Airlines vận chuyển 20,6 triệu hành khách, trở thành
hãng hàng không lớn nhất trong thị trường khu vực xét về tổng số lượng
hành khách (không tính các hãng hàng không chính của Trung Quốc), so với
18,7 triệu lượt của Thai Airways. Theo báo cáo, Vietnam Airlines vận
hành 95 tuyến đến 21 điểm trong nước và 29 điểm quốc tế với hơn 360
chuyến bay mỗi ngày; có 89 tàu bay bao gồm các tàu thế hệ mới như Airbus
350 (14 tàu) và Boeing 787 – Dreamliners (19 tàu).
Vietnam
Airlines hiện nay đang khai thác tối đa lợi ích của bầu trời “mở”. Hãng
đa dạng hóa các liên kết và hình thức kinh doanh, liên doanh với
Cam-pu-chia thành lập hãng hàng không quốc gia Cambodia Angkor Air (49%
cổ phần) và tham gia vào thị trường hàng không giá rẻ thông qua 70% cổ
phần trong Jetstar Pacific. Vietnam Airlines cũng là hãng đầu tiên khai
thác “Tuyến hàng không Đông Dương”, kết nối Hà Nội với thành phố Hồ Chí
Minh qua Xiêm Riệp, hoặc Phnôm Pênh, hoặc Viêng Chăn.
Vietjet
Air là hãng hàng không giá rẻ bắt đầu hoạt động năm 2011 nhưng đến năm
2015 đã vận chuyển trên 10 triệu lượt hành khách, tăng từ 6 triệu năm
2014. Năm 2016, lượng khách vận chuyển đã đạt 15 triệu lượt (tăng 50%)
với 42 tàu bay Airbus A320, gần bằng so với Thai AirAsia. Đến năm 2015,
sự phát triển của Vietjet mới chủ yếu dựa vào nhu cầu đi lại nội địa giá
rẻ. Đến nay, hãng đã mở rộng ra toàn khu vực GMS và ASEAN. Với liên
doanh Thai Vietjet, Vietjet Air đã có thể bay nội địa Thái Lan và kết
nối các điểm đến giữa Thái Lan và Việt Nam.
3.
Tác động của Hiệp định mở cửa bầu trời: mở rộng kết nối giữa các điểm
đến phụ cận, thị trường nguồn Trung Quốc và sự phát triển của hàng không
giá rẻ
Hiệp
định mở cửa bầu trời ASEAN đã được thực hiện đầy đủ sau khi
In-đô-nê-xi-a và Lào phê chuẩn các quy định về thị trường hàng không
chung ASEAN vào tháng 4/2016. Hiệp định này cho phép các hãng hàng không
mở đường bay đến các sân bay trong khu vực.
a) Mở rộng kết nối giữa các điểm đến phụ cận:
Năm 2016 và đầu năm 2017, nhiều hãng hàng không đã mở đường bay kết nối
thành phố Hồ Chí Minh với Sihanoukville; Băng Cốc với Hải Phòng, Đà
Nẵng và Phú Quốc; Phú Két với Xiêm Riệp. Đồng thời, các hãng hàng không
đã có kế hoạch tiếp tục kết nối các điểm đến khác, bao gồm: Băng Cốc với
Bagan, Khon Khen với các thành phố của Trung Quốc, Phnôm Pênh với
Yangon.
Các
điểm đến phụ cận cấp 2, cấp 3 đang hưởng lợi từ xu hướng kết nối hàng
không ngày càng mở rộng. Các sân bay phát triển nhanh nhất về số lượng
ghế máy bay kết nối trong giai đoạn 7/2015-7/2016 bao gồm: U-Tapao,
Pattaya (tăng 214%), Phú Quốc (tăng 66%), Hải Phòng (tăng 60%), Nha
Trang (tăng 49%) và Luang Prabang (tăng 39%). Năm 2017, sân bay Đồng Hới
đã có chuyến bay quốc tế đầu tiên đi Chiang Mai (Thái Lan). Lào là nước
được hưởng lợi nhiều nhất với việc tăng lượng ghế 28% trong khoảng thời
gian 7/2015-7/2016.
b) Tăng cường kết nối Trung Quốc – ASEAN:
Trung Quốc đã phê chuẩn Hiệp định mở cửa bầu trời với ASEAN năm 2010,
mở ra cơ hội kết nối đường hàng không giữa các thành phố phụ cận của
Trung Quốc đến ASEAN nói chung, GMS nói riêng. Đến tháng 7/2016, có hơn
70 tuyến kết nối Trung Quốc với Cam-pu-chia, Lào, Mi-an-ma, Thái Lan và
Việt Nam. Sân bay quốc tế Côn Minh, sân bay lớn thứ 7 ở Trung Quốc, lớn
thứ 2 trong GMS (sau Băng Cốc) là trung tâm trung chuyển chính giữa
Đông Nam Á và Trung Quốc, chiếm 60% tổng số ghế hàng không quốc tế giữa
Trung Quốc và các điểm đến ASEAN.
c) Sự phát triển của hàng không giá rẻ:
Giai đoạn 2007-2015, các hãng hàng không giá rẻ đã tăng từ 50 triệu ghế
trong ASEAN, lên đến 200 triệu ghế. Cho đến gần đây, hãng hàng không
lớn nhất về số ghế từ GMS đến các nước khác trong ASEAN là Thai AirAsia.
Đến tháng 4/2016, Thai AirAsia cung cấp hơn 670.000 ghế mỗi tháng từ
Băng Cốc đến các điểm đến ASEAN, so với 510.051 ghế mỗi tháng của Thai
Airways từ Băng Cốc đến ASEAN và 457.321 ghế của Vietnam Airlines từ
thành phố Hồ Chí Minh đến ASEAN (theo FlightmapsAnalytics, tháng
4/2016). Đến cuối năm 2016, con số của Vietnam Airlines đã vượt qua
AirAsia.
Hiện
nay, Thai AirAsia và Vietjet Air là hai hãng hàng không giá rẻ chính
trong GMS. Các hãng khác bao gồm các hãng đặt trụ sở tại Băng Cốc có Nok
Air, Thai Lion Air, Thai Vietjet; tại Mi-an-ma có Golden Myanmar
Airways; tại Việt Nam có Jetstar Pacific. Tại Vân Nam và Quảng Tây, các
hãng hàng không giá rẻ có mạng đường bay rộng lớn gồm Lucky Air và
Spring Airlines.
4. Nhận định về một số tác động của xu hướng hàng không trong khu vực đối với ngành du lịch Việt Nam
Một là,
kết nối giữa các điểm đến trong khu vực GMS ngày càng được mở rộng về
quy mô và tăng về tần suất. Nhờ hoạt động mở rộng của hàng không giá rẻ,
tần suất kết nối từ các trung tâm trung chuyển đến các trung tâm khác
được tăng cường; từ các trung tâm đến các điểm đến phụ cận cấp 2, cấp 3
được mở rộng. Đặc biệt, kết nối giữa các điểm đến phụ cận cấp 2 như Đồng
Hới – Chiang Mai vừa qua sẽ được mở rộng. Đây là cơ hội để GMS thực sự
trở thành một điểm đến chung, trong đó kết nối giữa Việt Nam và Thái Lan
là trụ cột chính với vai trò dẫn dắt của các hãng hàng không lớn nhất
khu vực của 2 nước.
Hai là,
các điểm đến trong GMS sẽ tiếp tục mở rộng và tăng cường kết nối với
thị trường Trung Quốc và các thị trường nguồn khác của khu vực trong
thời gian tới. Các hãng hàng không giá rẻ sẽ tiếp tục thúc đẩy xu hướng
này. Đối với Việt Nam, do có vị trí thuận lợi khi cách hầu hết các thị
trường nguồn lớn châu Á (Trung Quốc, Ấn Độ, Nhật Bản, Hàn Quốc…) khoảng 4
giờ bay, dự báo khi Vietjet Air mở rộng hoạt động sẽ tạo ra những tác
động tích cực cho du lịch Việt Nam.
Ba là,
vai trò của thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội ngày càng tăng trong ASEAN.
Điều này có được do hoạt động của Vietnam Airlines, Vietjet Air và các
hãng hàng không quốc tế khác ngày càng mở rộng; Việt Nam có ngày càng
nhiều điểm đến phụ cận hấp dẫn du khách như Hải Phòng, Ninh Bình, Đồng
Hới, Nha Trang, Bình Thuận, Lâm Đồng, Phú Quốc… chưa có nhiều đường bay
trực tiếp đến các thị trường nguồn; khách du lịch Việt Nam đi quốc tế
ngày càng tăng hầu hết qua 2 trung tâm này.
Bốn là,
hiện nay các hãng hàng không quan tâm đến Việt Nam với vai trò là vừa
là điểm đến hấp dẫn, đồng thời là thị trường nguồn quan trọng. Do vậy,
các điểm đến Việt Nam một mặt tăng cường thu hút khách du lịch quốc tế,
đồng thời cũng phải cạnh tranh với cả các điểm đến nước ngoài.
Năm là,
sự phát triển quá nhanh có thể dẫn đến các hệ quả như các sân bay không
đáp ứng kịp thực tế phát triển, du lịch đại chúng bùng nổ dẫn đến quá
tải, tắc nghẽn tại một số điểm đến vào mùa cao điểm, các vấn đề như ô
nhiễm, rác thải, vệ sinh môi trường, nhân lực… không bảo đảm đáp ứng sự
phát triển quá nhanh. Ngoài ra, năng lực đối phó với những rủi ro, biến
cố, khủng hoảng về môi trường kinh tế, chính trị, xã hội không đáp ứng
được thực tế có thể tạo ra những tác động tiêu cực trong những thời điểm
nhất định.
Tóm
lại, Báo cáo “Xu hướng du lịch Mê Công – Chuyên đề ngành hàng không khu
vực” đã cho thấy sự phát triển năng động, có nhiều điểm mới của ngành
hàng không khu vực, gắn chặt chẽ với xu hướng phát triển thị trường du
lịch trong những năm qua. Điểm nổi bật của Báo cáo là sự nổi lên của
Việt Nam với vai trò trung chuyển trong khu vực của Hà Nội và thành phố
Hồ Chí Minh và sự phát triển mạnh mẽ, cạnh tranh vị trí hàng đầu với
Thái Lan của Vietnam Airlines và Vietjet Air trong vận chuyển hàng không
khu vực. Thực trạng này về cơ bản tạo thuận lợi cho sự phát triển du
lịch khu vực GMS đồng thời tạo ra những thách thức nhất định, chủ yếu từ
việc phát triển quá nhanh, khó có sự điều tiết, kiểm soát chặt chẽ./.
Lê Tuấn Anh
Vụ Hợp tác quốc tế (TCDL)