Một trong những huyền tích kỳ lạ của cuộc khởi nghĩa Nhị vua Hai Bà Trưng là sự tham gia của 3 anh em hai gia đình đồng hao, gần gũi với hoàng tộc và lập nhiều chiến công hiển hách, đời đời thờ phụng.
Sinh thành tướng mệnh phù vua đuổi giặc ghi
trang sử
Hóa hiển thần thiêng giúp nước cứu dân tạc lưu truyền
Đó là câu đối ở đình Đông Ba, xã Thượng Cát, Từ Liêm, cách trung tâm Hà Nội
20km về phía tây bắc. Tại đây thờ ba võ tướng của Hai Bà Trưng là Quách Lãng,
Đinh Bạch Nương và Đinh Tĩnh Nương. “Thành Hoàng Duệ Tích xã Thượng Cát” soạn từ
đời Hồng Đức (1470) lưu tại đình cho biết rất rõ sự tích:
Thời Đông Hán, Tô Định sang làm Thái thú cai trị ta, khiến trăm họ đau thương.
Con gái Trưng tướng quân là nàng Trắc, vợ Thi Sách, giận Tô Định giết chồng đã
cùng em là nàng Nhị, nổi uy trời muốn cất quân đi đánh. Trước đó, động Hoa Lư
thuộc Châu Ái có người họ Đinh tên Cần, chuyên làm việc thiện, có nghề làm thuốc.
Quách Lương với Cần đồng học lại cùng tuổi, giao ước rằng: con cái hai họ sẽ lấy
nhau, nếu sai lời trời đất chu di. Sau đó họ Đinh nghèo, họ Quách giàu. Quách
Công năm ba mươi sáu tuổi sinh con trai Thủ Ước, Đinh Công năm ba mươi bảy tuổi
sinh con gái Tàm Nương.
Năm
sau hai nhà đều lại có chửa, Đinh Công sinh con trai đặt tên Tư Lang, Quách
Công sinh con gái Y Nương. Đến năm Thủ Ước 19 tuổi, Tàm Nương 18 tuổi, Tư Lang
và Y Nương đều 16 tuổi, Quách Công sửa mâm rượu mời Đinh Công, nói:
Hai
ta tuổi đều 60, trai gái đã trưởng thành, năm xưa hẹn ước thế nào, ngày nay việc
hôn nhân của con trẻ nên định đoạt. Rồi gọi trai gái hai nhà cùng có mặt. Bốn
người trẻ đều nghe lời, chọn ngày đẹp lứa tốt duyên.
Ngờ
đâu cha mẹ hai nhà liên tiếp qua đời, rồi thiên tai, trộm cướp, khiến gia tài họ
Quách sạch không. Vợ chồng Tư Lang một đói mười rét, than “Cha ta đã chữa cho
hàng nghìn người khỏi bệnh mà không chữa nổi bệnh nghèo của con”.
Anh
em hai nhà ở ngõ hẹp nhưng vui vẻ tính trời, tháng ngày rìu búa sinh nhai, đêm
đêm đọc sách qua ánh đèn đom đóm, giỏ cơm bầu nước thanh cao. Nhưng hai nhà đều
sang ba mươi vẫn chậm sinh nở, cùng than “nghèo cũng có mệnh, giàu sang bởi trời,
gia đình ta, ông cha làm điều thiện, hoặc là địa đạo còn thiếu nên lòng người
chưa yên?”, liền đem ruộng vườn bán hết, được 30 lạng bạc và 12 xâu tiền, tế trời
đất xong đi tìm thầy địa lý.
Đến
núi Đại Hoàng thấy ông già đầu bạc đội mũ hoa cầm gậy trúc vừa đi vừa hát, bèn
cùng làm lễ, cầu tự. Ông già rằng: Ta chẳng phải tiên, chẳng phải tục, thường
nhân một cuộc thân trong ba kiếp, vui xem địa lý tiêu giao, tự xem phúc thiện
nhân gian.
Vì
người làm phúc xưa vốn không để tâm, nay bọn bay muốn vậy, ta vừa thấy ở núi có
hai kiểu đất, hai người nên trở về đem hai bộ hài cốt một bố, một mẹ đến đây ta
táng cho.
Quay về nhà, họ Quách đem hài cốt cha, họ Đinh đem hài cốt mẹ làm y lời. Ông
già lại bảo ngôi mẹ họ Đinh, tọa Cấn hướng Khôn, sẽ sinh hai con gái, còn ngôi
táng cha họ Quách, tọa Đinh hướng Quý, tất sinh một con trai võ tướng, trước là
giúp nước, sau chết thành phúc thần.
Từ
đây nhật dụng hai nhà đều tạm đủ, sau ba bốn năm, ngày sáu tháng hai Mậu Dần
(18) họ Quách sinh con trai dĩnh ngộ khác thường, đặt Quách Lãng.
Bên
họ Đinh mồng bảy tháng Giêng năm Canh Thìn (20) sinh đôi con gái đặt là Bạch
Nương và Tĩnh Nương. Năm Quách Lãng 16 tuổi cầm thanh giáo dài đánh nổi trăm
người, còn hai nàng cùng 14 tuổi, giỏi thủy chiến, cưỡi thuyền lướt trên mặt nước
như bay.
Nghe tin Trưng Vương khởi nghĩa ở vùng Sơn Tây, ba người đến ứng nghĩa. Dừng
chân ở Thượng Cát, thấy kiểu đất đẹp, Quách Lãng ứng khẩu: Bình vàng trướng
ngọc vây quanh mọc/Cửa gấm, rèm buông thứ tự khai/Thừa khí thành chuông tuy mạch
nhỏ /Ở lâu có thể dựng cung đài. Lại nói “Sau này anh em ta quý hiển, lấy
đất này dựng cung đài, lấy làng này làm nơi cúng tế”, rồi tới Hát Môn.
Nhị
chúa Mê Linh Hai Bà Trưng cả mừng phong chức “Đô chiêu thảo sứ” cùng với con
ông chú Bà Trưng là Trưng Lệnh, ở chốn quân trung gọi là Hoàng đệ. Họ Trưng cho
hai nàng họ Đinh đi với người anh họ Quách chiêu dụ các hào kiệt, nghĩa quân
theo về lên tới sáu vạn. Hai đạo thủy bộ tiến thẳng đến thành giặc Tô ở Luy Lâu
(Thuận Thành, Bắc Ninh), toàn thắng trong thời gian ngắn.
Nữ chúa Trưng Trắc lên ngôi vua, phong em gái Trưng Nhị là Bình Khôi công chúa,
thân đệ Lệnh Công làm Tướng quân, hai nàng họ Đinh là Nhị vị công chúa, ban
duyên sánh với em vua Lệnh Công, gọi hai công chúa là Hoàng Phi. Lại cho Quách
tướng công ăn lộc ở huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai.
Quách
tướng công về Từ Liêm lập cung ở Thượng Cát, bổng lộc chia cho dân, lấy hòa mục
xây thành thói tốt nên được dân đội ơn. Hai nàng lấy Lệnh Công được ba tháng,
ngày 10 tháng Ba đua thuyền ở sông Nhị Hà thì tự hóa.
Trưng
Vương liền truy phong mỹ tự “Trinh khiết đoan trang Bạch - Tĩnh thủy tinh nhị vị
công chúa”, cho trang Thượng Cát thờ cúng hương lửa bốn mùa tám tiết đúng lễ
nghi.
Trưng Vương ở ngôi được ba năm, Mã Viện sang đánh, vua tôi, văn võ đều hy sinh
oanh liệt! Quách tướng quân tử nạn, dân Thượng Cát ghi nhớ công đức, tuân thủ mọi
nghi thức theo chức tước thần hiệu thờ cúng từ đấy.
Nước Việt ta vào tay nhà Đông Hán, Tấn, Tề đến nhà Lương ở phương Bắc. Trải nhiều
đời, đến Triệu Việt Vương được 15 năm, thì Lý Phật Tử đem quân đánh nhưng liên
tiếp bị thua, bèn nghĩ kế cầu hôn.
Triệu
Quang Phục không muốn tuyệt giao nên nhận lời, chia cắt bờ cõi hai nhà ở “Quân
thần châu” (bãi vua tôi) đường biên giới giữa Thượng Cát (phía trên), Hạ Cát
(phía dưới), nay Hạ Cát đã đổi thành Đại Cát (cát nghĩa là “cắt”). Dấu vết của
đường cắt đó là đường số 70 hiện nay, xưa gọi là đường thiên lý.
Nhà
Triệu ở thành Ô Diệp (Hạ Mỗ ngày nay), nhà Lý ở Thượng Cát. Phật Tử mật cầu khấn
ở miếu thờ Quách tướng quân, sau mộng thấy một người cưỡi ngựa bạch tập tễnh đến
nói rằng: “Ngựa của thần bị què, thấy ngài có con ngựa tốt, nếu ngài đổi thì thần
xin âm phù khiến dư đồ được thống nhất”.
Khi
tỉnh dậy thấy con ngựa của mình thường ngày cưỡi, tự nhiên chết, cho là rất
linh ứng. Sau họ Lý lấy được móng rồng của Triệu Việt Vương, đuổi họ Triệu chạy
đi rồi lên ngôi, gọi là Hậu Lý Nam Đế, truy phong Quách Tướng quân là Linh ứng
minh trì Đô chiêu thảo sứ Quách tướng quân Thượng đẳng thần và tạc hai con ngựa
để trong miếu thờ, định cho trang Thượng Cát thờ phụng.
Từ
đây về sau, trải các triều Đinh, Lý, Trần, Lê thỉnh cầu thường linh ứng nên vẫn
được gia phong mĩ tự để ức năm hương lửa không cùng.
Ngôi
đình Đông Ba phường Thượng Cát thờ thành hoàng làng là 3 danh tướng trong triều
đại Nhị vua Hai Bà Trưng là Quách Lăng, Đinh Bạch Nương và Đinh Tĩnh Nương. Địa
chỉ ở phố Châu Đài, phường Thượng Cát, quận Bắc Từ Liêm, thành phố Hà Nội.
Đình có từ thế kỷ 17, căn cứ vào niên đại Vĩnh Tộ 6 (1624)
triều vua Lê Thần Tông, thời Lê Trung hưng, ghi trong đạo sắc phong sớm nhất
lưu giữ được. Trải qua 4 thế kỷ, hiện giờ trong đình vẫn còn đủ 33 sắc phong, đạo
cuối cùng đề năm Khải Định 9 (1924), thời Nguyễn.
Đến nay ngôi đình đã được trùng tu, tôn tạo nhiều lần, chỉ
riêng bia đá, sắc phong và những cây muỗm cao to đứng vững qua thử thách thời
gian. Mặc dù có kinh phí nhà nước hỗ trợ nhưng danh sách công đức của dân làng
và khách thập phương trong mấy lần tu sửa gần đây cũng rất dài, phải ghi trên
hàng chục bia mới hết.
Đình Đông Ba được Bộ Văn hóa và Thông tin xếp hạng Di tích kiến trúc, nghệ thuật
ngày 22-4-1992, gồm cổng, tả hữu mạc, phương đình, đại bái, hậu cung. Thời gian
khởi dựng chưa rõ, nhưng cũng phải gần với năm ra đời cuốn thần phả của đình
(khoảng năm 1470), trùng tu thời Tự Đức (1871) và Thành Thái (1902).
Kiến
trúc ngày nay là phần còn lại từ hai lần trùng tu này và đợt dựng đại bái khánh
thành 9-2 - Bính Tuất - 2006 do nhà nước và nhân dân đóng góp xây dựng. Kiến
trúc và điêu khắc của đình là kết cấu vì gỗ cổ truyền và các mảng chạm tứ linh
trên cốn mê và hoa lá cách điệu.
Đình Đông Ba làng Thượng Cát tọa lạc trong một khuôn viên rộng
có tường bao; mặt bằng kiểu “nội Công ngoại Quốc”. Tam quan gồm 4 trụ biểu xây
gạch tạo thành 3 cổng với những cánh cửa gỗ, phía trên có những mái nhỏ xinh xắn
và đầu đao hơi cong. Cổng giữa đắp hình hổ phù ngậm vành trăng, nhìn về hướng
đông-nam ra hồ đình. Do cứ tôn mãi mặt phố Châu Đài nên bây giờ khi mưa to là
sân đình ngập nước. Ngay phía sau tam quan có một bia đá hình vuông xanh màu
rêu, gió mưa đã bào mòn hết chữ.
Sân đình được che mát bởi 4 cây muỗm cổ thụ, hai bên sân có
hai dãy nhà tả hữu vu. Đại đình rộng 5 gian 2 dĩ, dài đến 30m, sâu chừng 14m.
Nóc gồm 4 mái lợp ngói ta với các đầu đao uốn nhẹ; bên dưới có các cột cái đường
kính 53cm, cột quân 40cm, chân cột kê lớp đá tảng vuông 87x87cm đỡ lớp đá hình
tròn đường kính 60cm. Phía trước là các cửa gỗ bức bàn có chấn song con tiện.
Thềm gian giữa bày đôi sấu đá thời Lê Trung hưng và nhìn ra một phương đình kiểu
2 tầng 8 mái, dựa trên 12 cột vuông thanh thoát.
Bên trong đình vẫn còn hai bộ vì giữa có các mảng trang trí
từ thế kỷ 17. Kẻ chạm nổi đôi rồng nô giỡn, người cưỡi rồng, cưỡi ngựa có tiểu
đồng gánh hành lý theo sau và hình người ngồi trầm ngâm trên mỏm đá.
Bốn bức cốn nách được chạm lộng nhiều lớp với các đề tài rồng
ổ, phượng, long mã, tiên cưỡi rồng lớn chầu mặt trời, đuôi rồng bị một rồng nhỏ
ngậm chặt… . Những bộ vì bên các rường, kẻ, xà được chạm nổi bong kênh với các
hình vân mây, rồng, long mã và cỏ cây hoa lá mang phong cách nghệ thuật thế kỷ
19.
Hậu cung chỉ làm đơn giản với các ván bưng hai mặt bên, phía
trước có cửa bức bàn, trên cửa treo một vòng tròn lớn. Bên trong đặt long ngai,
bài vị của các thành hoàng.
Bên trong có kiệu bát cống, đồ tế khí từ cuối thế kỷ XIX và
đầu thế kỷ XX, tượng tướng quân, mũ quan võ, đôi hia. Một trong các câu đối cổ
ghi:
Giặc Bắc đến nhà vì nước đuổi thù ba kiệt tướng
Trời Nam có chủ cõi bờ giữ dựng Vua Bà
Hằng
năm vào ngày sinh Quách Lãng, 6 tháng Hai âm lịch, dân dùng xôi, rượu, thịt
trâu, bò, ca hát đấu vật; mồng 1 tháng 11, ngày hóa, lễ dùng lợn đen, xôi rượu;
và 7 tháng Giêng, ngày sinh của hai vị công chúa Bạch - Tĩnh lễ cúng vui ca
hát, dùng lợn đen, xôi rượu; ngày 10 tháng Ba ngày hóa lễ hội ca hát thi bơi
thuyền.
Ngày
Khánh hạ (vui mừng) 10 tháng 8 lễ dùng trâu, bò, xôi, rượu, vui ca hát. Nơi đây
gắn liền với tinh thần quật cường của dân tộc ta từ buổi sơ khai, nên người dân
có nguyện vọng trùng tu xây dựng tiếp tảo mạc, hậu cung, cổng để hoàn thiện quần
thể khu đình đẹp đẽ như buổi ban đầu.
Ths
Nguyễn Thy Nga