Trong thời kỳ hình thành và phát triển của nền văn minh Việt cổ, dân tộc ta đã có một lớp di vật tiêu biểu tượng trưng xứng đáng. Đó là trống đồng, là sản phẩm của thời kỳ cực thịnh của Nhà nước Văn Lang, Trống đồng đi vào lịch sử Việt Nam như một kỳ công tuyệt diệu.
Trống đồng Ngọc Lũ với hình dáng cân đối hài hòa, phủ kín
mình những hoa văn đẹp nhất, đã từ lâu rồi, không chỉ rất quen biết, thân thiết
với người Việt, mà còn rất nổi tiếng trên thế giới.
Trống đồng Ngọc Lũ có niên đại 2.500 năm cách ngày nay, được
xếp vào loại H1 - Heger (theo sự phân loại dựa trên 165 chiếc trống đồng được
biết đến thời điểm ấy của học giả F.Héger - người Áo - vào năm 1902), H1 là “loại
cổ nhất, cơ bản nhất và từ loại này mà các loại khác ra đời”. Ngọc Lũ là một
trong số không nhiều trống đồng giữ vai trò ấy.
Trống có patin màu xanh ngả xám, đường kính mặt 79,3cm, cao
63cm, nặng 86kg, thuộc loại kích thước lớn. Mặt trống đúc liền chờm ra khỏi
tang. Tang trống nở phình, thân trống hình trụ đứng, chân trống hình nón cụt
hơi choãi.
Mặt trống chính giữa đúc nổi ngôi sao 14 cánh bao quanh một
mặt tròn nổi, chính là núm để đánh trống. Xen giữa các cánh sao là những họa tiết
hình lông công. Bao quanh ngôi sao là 16 vành hoa văn.
Vành 1, 5, 11 và 16: Những hàng chấm nhỏ. Vành 2, 4, 7, 9,
13 và 14: Những vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành 3: Những hàng chữ ∫ gẫy
khúc nối tiếp. Vành 12 và 16: Văn răng cưa. Vành 6, 8 và 10: Hình người và động
vật đi quanh ngôi sao theo hướng ngược chiều kim đồng hồ.
Trong đó là các nhóm: Người mặc áo lông chim đang nhảy múa,
người giã gạo chày đôi, người đánh trống, nhà sàn mái cong, hươu đang đi cùng
chim mỏ ngắn bay và chim mỏ dài đứng.
Tang trống chính là chiếc hộp cộng hưởng khuếch đại âm thanh.
Phần trên có 6 vành hoa văn hình học. Vành 1 và 6: Những đường chấm nhỏ thẳng
hàng. Vành 2 và 5: Văn răng cưa. Vành 3 và 4: Hoa văn vòng tròn đồng tâm chấm
giữa nối với nhau bằng những tiếp tuyến song song.
Phần dưới là 6 chiếc thuyền chuyển động từ trái sang phải,
chở chiến binh tay cầm vũ khí và tù binh, xen giữa là những hình chim cò ngậm
cá, chó săn được thể hiện theo lối cách điệu. Gắn giữa tang và thân trống là
hai đôi quai kép đúc nổi hoa văn bông lúa, đối xứng nhau.
Thân trống hình trụ đứng, là bộ phận nắn âm thanh. Phần giữa
của thân có những hoa văn hình học chạy song song cắt nhau tạo thành 6 ô hình
chữ nhật. Trong ô là các võ sĩ đầu đội mũ lông chim, tay cầm vũ khí vừa đi vừa
múa. Phần dưới của thân là ba vành hoa văn hình học, giữa là vành văn vòng tròn
chấm giữa có tiếp tuyến. Hai bên là hai đường chấm nhỏ. Ngoài cùng là hai đường
chỉ trơn.
Chân trống nở choãi hình nón cụt là cửa mở để âm thanh của
trống thoát ra và tỏa rộng nhanh chóng, không trang trí. Rìa mặt trống có vết
lõm nhỏ, đó là dấu vết của những con kê để lại khi đúc trống.
Tên của Ngọc Lũ – chiếc trống Đông Sơn cổ nhất, đẹp nhất và
còn nguyên vẹn này - vốn không phải địa danh của nơi phát hiện như người ta thường
nghĩ với các chiếc trống khác.
Trong “Quản lý văn vật”, tháng 12 năm 1965 (Nội san của Vụ Bảo
tồn bảo tàng) Trần Huy Bá cho biết: Theo lời cụ Nguyễn Đăng Lập (85 tuổi) - người
xã Ngọc Lũ - vào khoảng năm 1893 - 1894, các ông Nguyễn Văn Y, Nguyễn Văn Túc
và một số người khác đắp đê ở xã Như Trác, huyện Nam Xang (nay là Lý Nhân) hữu
ngạn sông Hồng.
Khi đào ở bãi cát bồi thì thấy ở dưới độ sâu 2 mét lộ ra một
vật bằng đồng rất lớn, các ông vội lấp đất rồi đến đêm mới kéo ra đào thì thấy
một trống đồng, các ông khiêng về cúng vào đình làng Ngọc Lũ.
Sau 7 - 8 năm, một họa sĩ người Pháp đến vẽ tại đình thấy trống
liền báo cho Công sứ Hà Nam. Nhân có cuộc đấu xảo ngày 15.11.1902 ở Hà Nội, trống
được Trường Viễn Đông Bác Cổ mua lại với giá 550 đồng.
Trong tạp chí Khảo cổ học năm 1974, chi tiết về xuất xứ của
Ngọc Lũ có khác một chút khi cho rằng người dân đã cúng trống vào chùa Long Đọi
Sơn chứ không phải đình làng, cũng thuộc xã Ngọc Lũ, cách nơi phát hiện 30km về
phía đông bắc. Chỉ những khi có lễ cúng mới mang trống ra đánh, còn ngày thường
để ở hậu cung.
Từ năm 1958 đến nay, trống đồng Ngọc Lũ luôn được lưu giữ,
trưng bày tại hệ thống trưng bày chính của Bảo tàng Lịch sử Việt Nam. Đã có ý
kiến đề nghị đổi tên thành Như Trác cho tiêu bản trống đẹp và tiêu biểu nhất
này, song trống đã nổi tiếng từ lâu với tên Ngọc Lũ, và một sự thay tên như thế
cũng không cần thiết, về mặt khoa học.
Trống đồng Ngọc Lũ thuộc sưu tập trống đồng Đông Sơn là đại
diện loại hình hiện vật tiêu biểu nhất của nền văn hóa Đông Sơn nổi tiếng trong
khu vực Đông Nam Á. Trong hàng ngàn chiếc trống được phát hiện từ trước đến nay
(không hề có chiếc nào giống nhau hoàn toàn), trống đồng Ngọc Lũ vẫn là chiếc
trống có kiểu dáng và kích thước hài hòa nhất, trang trí hoàn mỹ và phong phú
nhất.
Hàm chứa những ý nghĩa sâu xa của lịch sử
Trống đồng giữ một vị trí vô cùng quan trọng trong sinh hoạt
đa dạng của cư dân xã hội Đông Sơn. Về cơ bản thì trống là một nhạc khí dùng
trong những lễ tiết lớn của cả cộng đồng. Trống đồng còn được dùng trong lễ mai
táng chôn theo người chết, trong lễ hội cầu mùa và là biểu tượng quyền lực của
tầng lớp thống trị thời kỳ Hùng Vương dựng nước.
Trống đồng là một "nhân chứng" lịch sử nói lên tài
năng, kỹ thuật tuyệt vời của chủ nhân đã sáng tạo ra chúng. Điều đó được chứng
minh bằng việc trống đồng Ngọc Lũ đã được đúc thể nghiệm rất nhiều lần nhưng vẫn
không có được sự thành công thực sự như người xưa.
Theo tác giả Nguyễn Văn Huyên trong bài “Từ chia loại, chia
nhóm đến tìm hiểu niên đại và quê hương của trống đồng”, thời đại đồng thau ở
nước ta kết thúc vào buổi đầu thời Đông Hán, nghĩa là khoảng TK thứ 1 sau Công
nguyên. Nhưng niên đại của trống H1 chưa chấm dứt ở đây, mà kéo dài thêm vài thế
kỷ nữa.
Điều này cũng dễ hiểu vì khi bước sang thời đại sắt, các
công cụ và vũ khí chủ yếu dần được thay thế bằng sắt, như Enghen nói, do tính
ưu việt của nó, nên chỉ có sắt mới có thể thay thế hoàn toàn được gỗ, đá, mới
nâng cao được năng suất lao động và hiệu quả chiến đấu. Nhưng đến lúc đó, trống
lại vẫn cần thiết được đúc bằng đồng, bởi vì đồng dễ nóng chảy, dễ đúc, không vỡ
khi đánh và có âm hưởng tốt.
Với những đặc tính đó, đồng vẫn giữ nguyên tính chất ưu việt trong việc đúc trống,
mà sắt không thể nào thay thế được. Điều đó giải thích sự tồn tại lâu dài của
trống đồng H1 nói riêng và trống đồng nói chung.
Đó là điều khiến chúng ta không ngạc nhiên khi thấy trống đồng
còn được chế tạo và lưu hành mãi đến thời cận hiện đại. Năm 1293, Trần Phu - sứ
nhà Nguyên - đến Thăng Long, làm thơ:
“Kim qua ảnh lý đan tâm khổ, Đồng cổ thanh trung bạch phát
sinh…”
(Bóng lòe gươm sắt lòng đau khổ, nghe tiếng trống đồng tóc bạc
trắng).
Ông cũng cho rằng, trống đồng là loại vật báu của phương Nam
mà người Hán không có.
Việt Nam là quê hương của trống đồng. Mật độ phân bố các trống H1 ở nước ta rất
dày đặc ở rất nhiều tỉnh, tập trung ở ven các sông lớn, nơi người Việt cổ cư
trú, đặc biệt là khu vực trung du và Đồng bằng Bắc Bộ đến Bắc Trung Bộ.
Nhìn vào bản đồ, ta có thể dễ dàng nhận thấy địa bàn phân bố
trống đồng trùng khít với cương vực nước Văn Lang của các vua Hùng. Chẳng những
nước ta là nơi phát hiện được nhiều trống đồng H1 nhất thế giới, mà còn là nơi
có nhiều trống có niên đại sớm nhất.
Trong 4 chiếc trống nhóm A (nhóm cổ nhất trong trống H1) thì
ở nước ta đã có tới 3 chiếc. Nước ta cũng là nơi đã tìm được nhiều trống H1 nhất,
có quá trình phát triển liên tục từ giai đoạn sớm đến giai đoạn muộn, giai đoạn
tàn dư của trống đồng H1.
Ở các vùng xung quanh nước ta, thường chỉ phát hiện được những trống đồng H1 có
niên đại tương đối muộn hoặc rất muộn về sau. Tất cả những điều đó chứng tỏ Việt
Nam là quê hương của trống đồng, trung tâm đầu tiên chế tạo ra những trống đồng
cổ nhất.
Từ Việt Nam, nền văn hóa Đông Sơn nói chung, của trống đồng
nói riêng, đã ảnh hưởng đến các vùng xung quanh. Chúng ta cũng còn thấy trên
các hình thuyền của các trống đồng cổ nhất thường có chở những trống đồng. Đó
là những thuyền lớn có thể vượt biển được.
Điều đó chứng tỏ từ
Việt Nam, trống đồng đã đi vào nhiều nước xung quanh thông qua con đường trao đổi
buôn bán hoặc chiến tranh, mà phương tiện giao thông theo các sông lớn và biển
là chính. Nhiều học giả phương Tây cũng thừa nhận như thế.
Tác giả Lưu Trần Tiêu và Nguyễn Minh Chương trong bài “Niên
đại trống Đông Sơn” đã nhận định: “Ngọc Lũ, Hoàng Hạ, Sông Đà là những trống nổi
tiếng và tuyệt đẹp. Một trình độ hoàn mỹ, với kiểu dáng và hình thức trang trí
đẹp nhất của các loại trống đồng tìm được từ trước tới nay.
Chính Heger cũng cho rằng: “2 chiếc trống này (trống Sông Đà
và trống Gi-lê) là quan trọng nhất trong tất cả mọi chiếc trống được biết cho tới
ngày nay”. Lúc này Heger chưa biết đến trống Ngọc Lũ và Hoàng Hạ, và căn cứ vào
những hình thức trang trí thì những chiếc trống này là cổ nhất, đó là một điều
không thể chối cãi được... Có lẽ có thể tìm được những chiếc trống đồng cổ hơn
trống Ngọc Lũ, bởi vì ngay sau khi ra đời, trống đồng không thể lập tức đạt đến
một trình độ hoàn mỹ như vậy được.
Những phát hiện trong thời gian gần đây chứng tỏ rằng, trong
lòng đất Việt Nam còn giấu kín khá nhiều trống đồng và có thể có những điều rất
thú vị mà chúng ta chưa thể lường trước được”.
Nhiều bài viết, kể cả một số bài nghiên cứu công phu đã chứng
minh mối liên quan có nguồn gốc hữu cơ giữa các hoa văn trang trí trên trống đồng
với các hoa văn trang trí trên đồ gốm của các nền văn hóa khác.
Bắt nguồn từ hậu kỳ thời đại đá mới đến thời đại đồng thau
và thời đại sắt sớm trên đất nước ta, từ văn hóa Phùng Nguyên, qua các giai đoạn
Đồng Đậu, Gò Mun, đến văn hóa Đông Sơn, những hoa văn chấm nhỏ thanh tú hợp
thành dải, hoa văn chữ S đa dạng, hoa văn làn sóng uốn khúc, hoa văn hình tam
giác hay răng cưa, hoa văn vạch thẳng hay vạch xiên song song cùng nhiều loại
hoa văn khác nữa là bằng chứng không thể phủ nhận, nói lên tính cách truyền thống
của nghệ thuật trang trí lâu đời của dân tộc ta.
GS Hà Văn Tấn từng đặt câu hỏi: “Người Phùng Nguyên đã trao lại những gì cho
người sáng tạo những chiếc trống đồng nổi tiếng? Có thể trả lời câu hỏi đó được
chăng, khi văn hóa Phùng Nguyên cách văn hóa Đông Sơn hơn mười thế kỷ? Tổ tiên
nghìn xưa muốn nói gì khi chạm khắc những hình người và động vật, những hoa văn
trang trí trên trống đồng?
Đó là những bức tranh hiện thực, những đường nét trang trí
mang tính thẩm mỹ đơn thuần hay những hình tượng đã mã hóa, chứa đựng những ý
nghĩa sâu kín, có thể liên quan đến tôn giáo hay lịch pháp?” Công việc giải mã
thứ ngôn ngữ đó tất nhiên không phải dễ dàng, và ông đã chỉ ra mối quan hệ ấy,
giữa ngôn ngữ trống đồng và ngôn ngữ đồ gốm Phùng Nguyên có những yếu tố “từ vựng”
và “ngữ pháp” chung một gốc.
Trống đồng Ngọc Lũ đã xuất lộ hơn 100 năm, nhưng vẫn còn đây
những bí ẩn truyền kỳ.
Lời cuối, xin được cảm tạ nghệ nhân phục chế trống đồng Thiều
Quang Tùng (Đông Sơn, Thanh Hóa) đã cung cấp chi tiết hoa văn trống đồng Ngọc
Lũ được chép lại từ phiên bản trống thật và vi tính hóa, để chúng tôi hoàn
thành bài viết này.
“Trống Đông Sơn kỳ diệu nhiều mặt, từ hợp kim, cách đúc, thẩm
mỹ trong thiết kế đến loại hình và bố cục hoa văn. Trống còn nói lên với chúng
ta - những người đời sau - những gì nữa về con người và xã hội đương thời, về
ông cha ta thuở dựng nước đầu tiên, về trí tuệ cùng tình cảm và tâm hồn của người
xưa, về tinh thần và lý tưởng của xã hội cũ? Còn phải tốn công mới khám phá được
hết những gì người xưa muốn nói về mình, đồng thời là để truyền lại đời sau.
Nhưng dù chỉ mới thoáng thấy mà thôi, những hình ảnh con người
múa hát trên mặt trống, trên sườn trống, dù là nắm gì – nhạc khí hay vũ khí –
trong tay, những nét tả con thuyền lướt sóng, con chim đang bay, con nai đang
chạy… đều để lại giác quan ta một ấn tượng tươi mát về tấm lòng và về cuộc sống
xưa kia được phản ánh lại đây.
Một tấm lòng nồng nhiệt, thiết tha với cuộc sống; một cuộc sống
lạc quan, tươi mát, yêu đời và thôi thúc con người hành động. Chẳng chút quá
táo bạo khi từ vị trí của những người kế thừa văn minh trống đồng, chúng ta
không tự ti trước những kẻ thừa hưởng văn minh kim tự tháp sông Nile, văn minh
đỉnh vạc Ân Chu, hoặc nữa, văn minh thành cao Athinai, tượng đá Aphrodite”.
Trống đồng Ngọc Lũ được Thủ tướng Chính phủ công nhận là Bảo vật quốc gia đợt 1 theo Quyết định số 1426/QĐ-TTg ngày 01/10/2012.
Trống thuộc văn hóa Đông Sơn, cách ngày nay khoảng 2.000 - 2.500 năm; có kích thước: đường kính mặt: 79,3 cm; đường kính chân: 80 cm; cao: 63 cm; được phát hiện khi đắp đê Trần Thủy tại xã Như Trác, huyện Nam Xang (nay là huyện Lý Nhân, tỉnh Hà Nam) năm 1893, sau đó được đưa về thờ tại đình làng Ngọc Lũ (huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam). Tháng 4 năm 1903, trống được Viện Viễn Đông Bác cổ sưu tầm và sau đó được lưu giữ tại Bảo tàng Louis Finot (nay là Bảo tàng Lịch sử Quốc gia).
Bản vẽ mặt đứng trống đồng Ngọc Lũ.
Hoa văn trang trí trên mặt trống đồng Ngọc Lũ.
Mặt
trống trang trí hình mặt trời 14 tia, giữa các tia trang trí hoa văn
lông đuôi chim công. Tiếp đến là 16 vành hoa văn, phân cách giữa các
vành là những đường gờ nổi.
Hình mặt trời 14 tia giữa mặt trống. Xen giữa mỗi tia là họa tiết lông đuôi chim công.
Vành
số 1, 5, 11, 16 là hoa văn chấm nhỏ. Vành số 2, 4, 7, 9, 13, 14 là hoa
văn vòng tròn chấm giữa có tiếp tuyến. Vành số 3 là hoa văn hình chữ N
gấp khúc nối tiếp.
Vành số 6, 8, 10 là các vành hoa văn chủ đạo.
Vành
số 6 trang trí hình người nhảy múa, nhà cầu mùa mái vòm, nhà sàn mái
cong, người giã gạo, cảnh đánh trống đồng… đối xứng qua tâm, chia thành 5
nhóm:
- Nhóm thứ nhất trang trí hình người nhảy múa, từ trái
sang phải, có 6 đến 7 người. Trong số đó, có 1 người không đội mũ, 6
người còn lại đội mũ lông chim; 5 người cầm giáo. Nhóm 6 người đối xứng
với nhóm 7 người, đều đội mũ lông chim, mặc váy hai vạt, vừa đi vừa múa,
1 người cầm rìu, 1 người thổi khèn, và 4 người cầm giáo.
Hình người hóa trang lông chim, tay cầm nhạc cụ hoặc vũ khí trong tư thế chuyển động về phía trước.
Nhạc công đầu đội mũ lông chim vừa chơi nhạc, thổi khèn, vừa nhảy múa.
-
Nhóm thứ hai là hình nhà cầu mùa mái vòm, trang trí người búi tóc,
trong tư thế hành lễ, hai bên vách là họa tiết vòng tròn chấm giữa.
Hình nhà cầu mùa mái vòm. Hai bên vách trang trí vòng tròn chấm giữa.
Trong nhà có người đứng hành lễ, hai tay cầm vật gì đó giơ cao.
Hình nhạc công với chim mỏ ngắn, đầu tròn bay ở phía trên.
-
Nhóm thứ ba trang trí hình đôi trai gái đang cầm chày giã gạo. Bên trái
có một người hướng về phía ngôi nhà mái vòm, trên đầu có 1 con chim
đang bay.
Hình đôi nam - nữ giã gạo.
- Nhóm thứ tư
trang trí hình nhà sàn mái cong, trên nóc nhà có 1 con chim đuôi dài
đậu. Đối xứng với chim đuôi dài là một ngôi nhà sàn mái cong khác, trên
nóc nhà có cặp chim trống - mái. Trong nhà có 2 người ngồi đối diện
trong tư thế đầu ngẩng cao, ngửa ra sau, tóc xõa, đang hát giao duyên
hoặc chơi trò chồng nụ chồng hoa. Bên phải, phía dưới hiên nhà có 1
người ngồi, đối diện có 1 chiếc trống đồng nằm ngang.
Hình nhà sàn mái cong với chim đuôi dài đậu trên nóc. Trong nhà có
hai người tóc xõa ngồi đối diện, đang hát giao duyên hoặc chơi chồng nụ
chồng hoa. Đầu hồi bên phải có một người ngồi đánh trống. Phía hồi đối
diện có một chiếc trống đồng nằm nghiêng.
Hình nhà sàn mái cong với một cặp chim trống - mái
đậu trên nóc. Trong nhà có hai người ngồi đối diện, đang hát giao duyên
hoặc chơi chồng nụ chồng hoa. Kế bên có một người ngồi đánh trống.
-
Nhóm thứ năm trang trí cảnh đánh trống đồng đối xứng. Cảnh thứ nhất gồm
4 người búi tóc ngồi phía bên phải, tay cầm gậy dài chấm đến sàn. Cảnh
thứ hai cũng có 4 người, trong đó có 1 người đứng, tay cầm gậy. 3 người
còn lại ngồi tay cầm gậy dài chấm đến sàn. Phía dưới có 4 chiếc trống
đồng xếp thành một dãy.
Vành số 8 có 2 nhóm hươu, tổng cộng 20
con, mỗi nhóm 10 con, đực cái xen kẽ, xen kẽ giữa các nhóm là 14 con
chim lạc, với hai nhóm 6 con và 8 con, hướng ngược chiều kim đồng hồ.
Vành số 10 là 36 con chim, trong đó có 18 con bay và 18 con đậu, ngược chiều kim đồng hồ.
Vành số 12, 15 là hoa văn răng cưa. Viền mặt trống không có hoa văn, có vết con kê hình vuông không đều nhau.
Tang
trống có 10 vành hoa văn. Vành số 1, 6, 8, 10 là hoa văn vòng tròn chấm
nhỏ. Vòng số 2, 5 là hoa văn răng cưa. Vành số 3, 4 là hoa văn vòng
tròn chấm giữa tiếp tuyến song song. Vành số 7 là hoa văn người hóa
trang lông chim đua thuyền và chim cốc. 6 hình thuyền đi từ trái sang
phải, thuyền thứ 1 có 5 người, thuyền thứ 4 có 6 người, thuyền thứ 2, 3,
5, 6 có 7 người, các nhân vật như thuyền trưởng, thủy thủ, người cầm
lái, người bắn tên, người giết tù binh, tù binh...
Hình thuyền chiến 1. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền
hình tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 4 người và 1 con chó săn.
Giữa thuyền có thể là người chỉ huy, một tay cầm dùi đánh trống da, tay
còn lại cầm rìu chiến. Phía đuôi thuyền có 1 người cầm lái. Một chiến
binh ngồi trước mũi thuyền, tay cầm rìu chiến. Trên đài quan sát có 1
chiến binh đứng ngược hướng thuyền chạy, hai tay giơ cao cung nỏ. Dưới
đài có trống đồng để ngửa và bình đồng.
Hình thuyền chiến 2. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền
hình tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 7 người và 1 con chó săn.
Giữa thuyền là người chỉ huy, một tay đánh trống da, một tay đang túm
tóc kéo lê 1 tù binh lõa thể và 1 chiến binh một tay cầm giáo, một tay
kéo lê 1 tù binh lõa thể khác. Phía đuôi thuyền có 1 thủy thủy cầm lái.
Một chiến binh ngồi trước mũi thuyền, tay cầm rìu chiến. Trên đài quan
sát có 1 chiến binh đứng ngược hướng thuyền chạy, hai tay giơ cao cung
nỏ. Dưới đài có trống đồng để ngửa.
Hình thuyền chiến 3. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền
hình tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 6 người. Giữa thuyền là
người chỉ huy, một tay đánh trống da, một tay kéo lê 1 tù binh lõa thể, 1
chiến binh đang một tay cầm rìu, một tay cầm giáo chuẩn bị đâm tù binh.
Phía mũi thuyền có 1chiến binh ngồi, tay cầm rìu chiến. Trên đài quan
sát có 1 chiến binh đứng xuôi hướng thuyền chạy, hai tay giương cung bắn
tên. Người cầm lái cũng cầm cung tên.
Hình thuyền chiến 4. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền
hình tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 7 người. Giữa thuyền là
người chỉ huy, một tay đánh trống da, một tay kéo lê 1 tù binh lõa thể, 1
chiến binh cầm giáo chuẩn bị đâm tù binh. Phía mũi thuyền có 2 chiến
binh ngồi, tay cầm rìu chiến. Đuôi thuyền có 1 người cầm lái. Trên đài
quan sát có 1 chiến binh đứng xuôi hướng thuyền chạy, hai tay giương
cung bắn tên. Dưới đài có một chiếc bình đồng.
Hình thuyền chiến 5. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền
hình tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 7 người. Giữa thuyền là
người chỉ huy, hai tay thúc trống da và 1chiến binh một tay túm tóc, một
tay cầm giáo đâm vào đầu tù binh. Phía mũi thuyền có 2 chiến binh ngồi,
tay cầm rìu chiến. Đuôi thuyền là người cầm lái. Chiến binh giương cung
đứng trên đài quan sát xoay ngược hướng thuyền chạy. Dưới đài có một
chiếc trống đồng.
Hình thuyền chiến 6. Kiểu thuyền mũi cong, có bánh lái, mắt thuyền
hình vòng tròn đồng tâm chấm giữa. Trên thuyền có 7 người. Giữa thuyền
là người chỉ huy một tay đánh trống, một tay túm đầu tù binh, 1 chiến
binh một tay cầm giáo đâm ngập đầu tù binh, tay còn lại cầm giáo huơ
cao. Phía mũi thuyền có 1 chiến binh ngồi, tay cầm rìu chiến và 1 chiến
binh đứng sau, một tay cầm giáo, tay kia cầm cờ. Người cầm lái trong tư
thế ngồi. Chiến binh giương cung đứng trên đài quan sát xoay xuôi hướng
thuyền chạy. Dưới đài có trống đồng đặt úp.
Hình chiến binh trên thân trống, được thể hiện
trong 8 ô, mỗi ô có hai chiến binh đầu đội mũ lông chim, một tay cầm rìu
chiến, một tay cầm mộc.
Thân trống có 10 vành hoa văn. Vành
số 1, 3, 5, 10 là hoa văn chấm nổi, vành số 2 là hoa văn chữ V lồng
nhau, hoa văn chấm, giữa hoa văn gân lá có hoa văn hai vòng đồng tâm
tiếp tuyến, chia làm 8 ô theo chiều dọc. Mỗi ô có 2 người múa. Trên đầu
người múa đội mũ, mặc váy, tay trái cầm mộc, tay phải cầm rìu, vừa đi
vừa múa.
Hình chim đầu tròn mỏ ngắn đang bay và cặp hươu đực - cái xen kẽ.
Hình chim Lạc đang bay xen kẽ chim mỏ ngắn đang đậu.
Phần chân trống trơn không trang trí hoa văn. Bốn quai trống dẹt, trang trí văn thừng tết.
Trống
đồng Ngọc Lũ thuộc loại HI theo phân loại của học giả Áo F.Héger, là
chiếc trống đẹp, tinh xảo, nguyên vẹn và có hình dáng cân đối, hài hòa
nhất trong những trống Đông Sơn đã phát hiện. Ngoài chức năng chính là
một loại nhạc cụ quan trọng, cũng như các trống đồng Đông Sơn khác,
trống đồng Ngọc Lũ còn là biểu tượng quyền lực của các thủ lĩnh Đông
Sơn.
Hình người ngồi trên sàn cao đánh trống đồng, hoặc đang phá khuôn sau khi đúc trống đồng.
Trống
đồng Ngọc Lũ không chỉ thể hiện trình độ đúc đồng đỉnh cao mà còn là
tác phẩm nghệ thuật tiêu biểu cho tài năng sáng tạo của người Việt cổ,
lả biểu tượng của văn hóa Việt Nam.