Làng Bình Cách (xưa có tên Nôm là làng Gạch) một vùng đất địa linh có long chầu, hổ phục là nơi “ngự” của các thiên thần, nhân thần và huyệt vị tụ khí được dân làng chọn làm nơi xây dựng đình, đền, chùa, miếu huyền bí linh thiêng và cổ kính. Đình Bình Cách thờ bái vọng 8 vị linh thần của 8 Giáp.
Cụm đình, đền, chùa, miếu Bình Cách, di tích lịch sử văn hóa
quốc gia.
Tương truyền, thời nhà Lý, khi đánh tan giặc Vĩnh Trinh,
Hoàng Lang Thái tử (con vua Lý Thánh Tông) tung chiếc cờ dài 10 thước lên trời,
cờ cuốn theo chiều gió bay đến làng Gạch (nay là thôn Bình Cách, xã Đông Xá,
huyện Đông Hưng) thì rơi xuống.
Hoàng Lang cưỡi voi cùng đoàn quân cả nghìn người trùng
trùng điệp điệp về làng Gạch dựng trại ăn mừng chiến thắng, dân làng Gạch mừng
vui đón thiên tướng, mổ lợn, gà, trâu, bò khao quân. Hoàng Lang dâng hương bái
lạy Quý Minh Đại vương tại đền Gạch và nghỉ lại nơi đây một đêm...
Làng Bình Cách (xưa có tên Nôm là làng Gạch) một vùng đất địa
linh có long chầu, hổ phục là nơi “ngự” của các thiên thần, nhân thần và huyệt
vị tụ khí được dân làng chọn làm nơi xây dựng đình, đền, chùa, miếu huyền bí
linh thiêng và cổ kính.
Đình Bình Cách thờ bái vọng 8 vị linh thần của 8 Giáp gồm
Quý Minh Đại vương thượng đẳng thần miếu Giáp Đoài; Linh Lang Đại vương thượng
đẳng thần miếu Giáp Đông; Thái Bảo tôn thần miếu Giáp Móc; Trần Triều Chiêu
Dung Công chúa miếu Giáp Cả; Ngô Đồng Đại vương miếu Giáp Vân; Ngã Ba kẻ giữa
tôn thần miếu Giáp Trung; Mã Cả tôn thần miếu Giáp Bắc; Linh Công Bản lễ tôn thần
miếu Giáp Hậu... Đáng chú ý đình Bình Cách còn lưu giữ tấm bia đá “Trung nghĩa
từ” ghi công lao các nghĩa sĩ đã hy sinh trong cuộc chiến đấu bảo vệ làng, bảo
vệ quê hương đất nước trước khi giặc Pháp chiếm đóng hoàn toàn Bắc kỳ.
Tương truyền, thời vua Lý Thái Tông (1028 - 1054), ở trang Bồng
Lai, huyện Từ Liêm, phủ Quốc Oai, đạo Sơn Tây (nay là quận Bắc Từ Liêm, Hà Nội)
có gia đình chồng tên là Dương Đạo, vợ là Nguyễn Thị Từ làm nghề buôn bán tơ lụa
nhưng vẫn chưa có con.
Một đêm bà Từ nằm mộng thấy ánh sáng đỏ bay vào nhà, ngay
lúc đó xuất hiện một cụ già trên tay bế đứa trẻ xưng là Thiếu âm tinh sẽ đầu
thai vào nhà bà. Kể từ đêm ấy bà có thai, sau 9 tháng 10 ngày sinh hạ được bé
gái, ông bà đặt tên cho con là Phương Nương.
Năm Phương Nương 18 tuổi nhan sắc tuyệt trần, đủ công dung
ngôn hạnh. Rồi một ngày kia vua Lý Thái Tông ra ngoại thành du ngoạn đến trang
Thị Lệ (bên bờ Hồ Tây) chợt thấy cô gái xinh đẹp đang hái dâu bên đường, nhà
vua đem lòng thương mến.
Về cung, vua sai quan đến hỏi và đem 100 lượng vàng làm sính
lễ rước nàng về cung lập làm Đệ nhị cung phi đồng thời cho xây một cung riêng ở
trại Thị Lệ. 4 năm sống trong nhung lụa chốn điện vàng, Phương Nương vẫn một
lòng canh cánh nhớ quê. Một hôm nghe tin cậu ruột của Phương Nương bị bệnh qua
đời, nàng xin vua cho về quê chịu tang. Mãn tang cậu, Phương Nương trở lại kinh
thành.
Khi qua Hồ Tây tắm gội để vào yết kiến vua, bỗng nhiên trời
đất tối sầm, nước hồ cuộn sóng, nàng thấy một con giao long dài hai trượng, đầu
đội mũ hoa, mình đầy vẩy cá hiện lên quấn một vòng quanh nàng.
Cung phi hồi triều và có thai, sau 12 tháng, đến ngày 4
tháng Giêng mùa xuân năm Giáp Thìn (1064) sinh được bé trai khôi ngô tuấn tú,
sau lưng có 28 vết hằn trông như vẩy rồng và trên ngực có bảy hàng chấm, óng
ánh như hạt ngọc. Vua thấy con mình hình mạo khác thường cho là “Long hầu giáng
thế” bèn đặt tên con là Hoàng Lang và cho mở tiệc lớn khao mừng.
Ba năm sau, giặc Vĩnh Trinh nổi lên làm loạn ở vùng núi phía
Bắc, binh hùng, tướng mạnh lại thêm bạo tàn nên thiên hạ ai ai cũng khiếp sợ.
Nhà vua cho lập đàn cầu hiền tài trị giặc giúp nước.
Đang lúc cầu đảo, bỗng trên trời xuất hiện đám mây trắng,
vang vẳng tiếng tiên hiền giáng đàn: “Thế nước gieo neo có thánh tài/Vận trời
đã định há lo hoài/Nếu cầu người giỏi nơi phường Trại/Giặc Vĩnh Trinh kia chết
chẳng sai”.
Nghe lời phán bảo của tiên hiền, vua sai xá nhân rao tìm.
Khi ấy Hoàng Lang ở trại Thị Lệ nghe tiếng quan rao, bỗng ngồi dậy cất tiếng gọi
mẹ. Hoàng Lang giục mẹ mời xá nhân vào nhà và nói rằng: “Ngươi hãy mau mau về
báo với vua cha, sắm cho ta một lá cờ dài 10 thước và một con voi thật lớn rồi
mang lại ngay cho ta, ta sẽ đánh tan giặc, xin vua cha đừng lo”.
Nghe vậy xá nhân về bẩm lại với vua, nhà vua hết sức kinh ngạc.
Hôm sau sai người mang đến cờ và một thớt voi cùng 5 nghìn binh lính cho làm
gia thần.
Nhìn thấy thớt voi chiến đầy uy vũ, cờ dài 10 thước Hoàng
Lang cười lớn rồi nghiêng mình lắc mạnh, thân hình cao 9 trượng, tay cầm lá cờ
10 thước nhảy lên lưng voi thét lớn, tiếng rung chuyển như sấm rền: “Ta là
thiên tướng”. Voi chiến lồng lên lao như tên bắn thẳng đến đồn giặc.
Tướng giặc Vĩnh Trinh nhìn thấy sợ ngã lăn ra, quân lính chạy
toán loạn vì khiếp sợ. Đánh tan quân giặc Vĩnh Trinh, vua Lý mừng vui khôn xiết,
triệu Hoàng Lang về cung ban thưởng.
Truyền ngôn, khi nhận ân điển của nhà vua, Hoàng Lang cười hả
hê, tay cầm lá cờ 10 thước ném lên trời, cờ bay đến đâu thì vua sẽ ban sinh từ
cho Hoàng Lang đến đó.
Vua vừa ban chiếu, bỗng cuồng phong nổi lên, cờ của Hoàng
Lang cuốn theo gió bay đi, dân gian đếm được cả thảy 269 làng được cờ chạm xuống
đất rồi lại bốc lên cao bay đi trong đó có làng Gạch. Chiểu theo chiếu chỉ của
vua Lý, làng nào có cờ của Hoàng Lang rơi xuống, nơi đó được dựng đền thờ Hoàng
Lang (Hiện chỉ còn đền thờ ngài ở Hà Nội, Hà Nam, Nam Định và Thái Bình).
Bờ cõi đã yên, sứ mệnh vua trao Hoàng Lang đã phụng sự đủ đầy,
ngài trở về vùng đất Thị Lệ vui cảnh sông hồ. Không ngờ, chỉ vài ngày về trang
Thị Lệ, chưa kịp “ngắm trăng hỏi gió” thì Hoàng Lang mắc phải chứng bệnh đậu
mùa, vua biết tin xa giá đến thăm con.
Biết mệnh mình sắp hết, Hoàng Lang tâu với vua rằng:
“Muôn tâu bệ hạ, con thuộc dòng dõi Lạc
Long, là 1 trong số 50 người con theo cha xuống biển, phụng mệnh Ngọc Hoàng
thác sinh vào cung son gác tía. Nay giặc đã quét sạch, muôn dân được no ấm, con
phải trở lại chốn thủy cung”.
Nói xong Hoàng Lang biến thành Giao Long, trườn mình ra Hồ
Tây và biến mất. Vua thương xót sắc phong “Linh Lang Đại vương Thượng đẳng tôn
thần”, sắc chỉ cho 269 làng phụng thờ. Dân làng Gạch (Bình Cách) đã dựng miếu
Giáp Đông thờ phụng ngài.
Năm Quý Mùi (1883), một đoàn tàu chiến gồm 600 tên giặc Pháp
theo cửa sông Trà Lý ngược đến Bình Cách, chúng tấn công đoàn thuyền lương của
triều đình nhà Nguyễn và bắn chết Lãnh binh Phạm Độ Sự.
Ghi nhớ sự kiện này, dân làng Gạch khắc bia “trung nghĩa từ”,
sau chuyển về đình Bình Cách thờ. Cùng năm này, huyện lỵ Đông Quan chuyển về
làng Bình Cách, Đề đốc Tạ Hiện và quan Ngự sử Phạm Huy Quang treo ấn từ quan về
làng Gạch xây dựng lực lượng chống giặc Pháp.
Phong trào chống giặc Pháp xâm lược do hai ông khởi xướng đã
làm cho giặc Pháp thất kinh, bát đảo. Cuối năm 1888, Phạm Huy Quang bị giặc
Pháp bắt và xử tử. Không chịu khuất phục, Đốc Nhưỡng và Đốc Đen tiếp tục lấy
làng Gạch xây dựng căn cứ chống giặc Pháp, làm nên bản anh hùng ca bất tử ngay
tại làng Gạch bình dị chốn thôn quê. Cuối thế kỷ XIX, đình Bình Cách trở thành
căn cứ hoạt động của phong trào Cần Vương...
Nguồn: Báo Thái Bình