Cùng với 13 gò chôn xác quân Thanh như: gò Đống Đa, gò Trung Liệt, gò Đống Thiêng, gò Đầu Lâu, núi Cây Cờ, chùa Đồng Quang, Thanh Miếu... Chùa Bộc là một di tích lịch sử ghi dấu chiến công oanh liệt của nghĩa quân Tây Sơn đánh bại quân xâm lược Mãn Thanh vào Tết Kỷ Dậu 1789.
Chỉ 3 năm sau thời điểm đại phá quân Thanh, Hoàng đế Quang
Trung đột ngột băng hà vào mùa Thu năm 1792. Để tưởng nhớ đến nghĩa quân Tây
Sơn, người anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ, ngày nay, tại Hà Nội có
nhiều nhân vật lịch sử liên quan đến cuộc khởi nghĩa này đã được đặt cho nhiều
tên phố ở Thủ đô như: phố Quang Trung, phố Ngô Thì Nhậm... Đặc biệt ở chùa Bộc
hiện nay, còn có một pho tượng thờ Quang Trung rất độc đáo.
Chùa Bộc - nơi ghi dấu trận đánh oanh liệt năm xưa
Xưa, chùa Bộc thuộc trại Khương Thượng, huyện Quảng Đức, phủ Phụng Thiên. Nay,
chùa tọa lạc tại phố Chùa Bộc, quận Đống Đa, Hà Nội. Chùa còn có tên gọi là
Thiên Phúc Tự hay Sùng Phúc Tự.
Theo truyền thuyết, chùa Bộc được xây dựng từ rất lâu đời.
Nhưng do nằm ở vùng xảy ra trận Đống Đa lịch sử năm 1789, nên trong trận “Xuân
lửa Đống Đa” tiêu diệt 29 vạn quân Thanh, chùa Bộc khi đó đã bị thiêu hủy hoàn
toàn.
Tấm bia “Tái tạo Sùng Phúc Tự, Phật tượng các tòa bi ký” dựng
tháng Giêng năm Nhâm Tý - niên hiệu Quang Trung thứ 4 (1792) cho biết chùa được
xây dựng và làm lại tượng Phật do Thiền sư trụ trì là Tăng thống Lê Đình Lượng
tự Đức Trường và vị sắc mục là Vũ Viết Hoa cùng nhân dân bản trại Khương Thượng
phát tâm tu sửa.
Theo Thượng tọa Thích Bảo Nghiêm: “Chùa Bộc còn lưu giữ được
nhiều hiện vật phong phú, trong đó có hệ thống tượng thờ... đặc biệt phải kể đến
3 pho tượng đặt thờ ở bên phải Tiền đường là tượng Đức Ông và hai thị giả của
Ngài.
Ngày 22-4-1962, một số nhà nghiên cứu đã tiến hành nghiên cứu
kỹ pho tượng giữa và phát hiện ở phía sau bệ gỗ, đặt áp sát vào tường có dòng
chữ khắc: “Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng” nên cho rằng pho tượng Đức Ông tại
chùa Bộc chính là tượng vua Quang Trung - Nguyễn Huệ.
Tượng được dựng và tôn thờ dưới dạng tượng Đức Ông để tránh
sự trả thù của triều Nguyễn với nhà Tây Sơn. Pho tượng được tạc năm Bính Ngọ
(1846) trong tư thế tự nhiên như đang ngồi làm việc với 2 viên quan ngồi sát ở
bậc dưới. Tư thế của tượng Đức Ông cũng khác thường. Ngài ngồi trên bệ sơn son,
một chân ở trong hài, còn một chân để bên ngoài một cách tự nhiên, rất sống động.
Ngài mặc áo hoàng bào, thêu rồng ẩn trong mây, lưng thắt đai
nạm ngọc, đầu đội mũ xung thiên, có hai dải kim tuyến thả xuống trông rất oai
nghiêm. Tất cả trang phục đó là của vị đế vương.
Ngay sau lưng pho tượng, phía bên trên đỉnh đầu, có một chữ
tâm và dòng chữ ghi: "Bính Ngọ tạo Quang Trung tượng" (Năm Bính Ngọ tạc
tượng vua Quang Trung, 1846). Bên trên trước ngai thờ có một tấm hoành phi ghi
bốn chữ: "Uy phong lẫm liệt". Đặc biệt hơn hết là đôi câu đối treo
hai bên ngai thờ Đức Chúa Ông như sau: Động lý vô trần đại địa sơn hà lưu đống
vũ/Quang trung hoá Phật tiểu thiên thế giới chuyển phong vân.
Có nhà nghiên cứu cho rằng: “Chính ông Nguyễn Kiên - một võ
tướng cai quản đội tượng binh của Tây Sơn, sau trở thành nhà sư, tu ở chùa Bộc,
là người cho tạc tượng Quang Trung”. Năm 1964, chùa Bộc đã được công nhận là Di
tích lịch sử văn hóa Quốc gia.
Hiện, chùa Bộc còn có nhà trưng bày giới thiệu những chiến
công oanh liệt của Hoàng đế Quang Trung và quân Tây Sơn như: Hịch của Quang
Trung khi đem quân ra Bắc đánh đuổi giặc Thanh, sa bàn trận Đống Đa, các vũ khí
thời Tây Sơn...
Mặc dù chỉ đến mảnh đất Thăng Long 3 lần và ở lại trong một
thời gian ngắn, nhưng tên tuổi, hình ảnh của Hoàng đế Quang Trung - Nguyễn Huệ
đã ghi dấu trong lòng nhân dân qua hai câu thơ của Hoàng hậu Lê Ngọc Hân - người
vợ được Hoàng đế Quang Trung hết mực yêu quý, kính trọng:
“Mà nay áo vải cờ đào
Giúp dân dựng nước xiết bao công trình”.
Kiến trúc chùa gồm cổng tam quan , Tam bảo , nhà thờ tổ ,
nhà thờ mẫu , vườn tháp , có khuôn viên rộng . Có hồ tắm voi , gò kéo cờ , gò
đánh cồng là những dấu tích liên quan đến cuộc chiến đấu của vua Quang Trung ở
vùng này vào ngày mùng 5 tết âm lịch năm Kỷ Dậu ( 1789 ) . Chùa còn bảo tồn được
được nhiều di vật quý gồm các pho tượng Phật , 3 bia cổ ( bia Vĩnh Trị
nguyên niên thời vua Lê Huy Tông ( 1676 ) , bia Chính Hòa , năm Bính Dần
( 1686 ) và bia Nhâm Tí niên hiệu Quang Trung ( 1792 ) , một quả chuông có niên
hiệu Cảnh Thịnh .
Ngoài hoa mai vàng, trước sân chính điện, hoa đào vẫn còn hồng
với xuân. Cảnh vật nơi chùa làm tôi nhớ đến chuyện tình cảm động của công chúa
Thăng Long Lê Ngọc Hân với "Hoàng đế" Quang Trung, sau chiến thắng
quân Thanh, nhà vua cho mang cành đào về báo tin thắng trận cho Hoàng hậu Lê Ngọc
Hân, mang cả mùa xuân Thăng Long về Phú Xuân.
Bàn thờ vua Quang Trung trong chính điện với 4 chữ "Uy phong lẫm liệt".
Những cột đá chạm trổ rất đẹp trong chùa.
Khuôn viên chùa với hình ảnh cây mít cổ thụ, mai vàng phương Nam rất đỗi thân quen.
Trước sân chính điện với hai bia đá cổ rất đẹp.
Mai- Đào trước sân chính điện chùa Bộc.
Hồ sen trước chùa…
Vườn Tháp cổ trong chùa.