Bối Khê là một trong những ngôi chùa cổ nhất ở Bắc Bộ, với niên đại 600 năm, lưu giữ nhiều nét độc đáo. Tương truyền, chùa được xây dựng từ năm 1338 dưới thời Trần. Chùa thờ Phật, Tam Tòa Thánh Mẫu, thờ Đức thánh Bối Nguyễn Đình An – người có công đánh giặc phương bắc, và cũng lưu giữ nhiều dấu tích tôn giáo của phái Trúc Lâm, Đạo giáo, Khổng giáo.
Chùa Bối Khê có tên chữ là Đại Bi tự, xã Tam Hưng, huyện
Thanh Oai, là một trong những ngôi chùa gỗ cổ nhất Việt Nam với niên đại 600
năm tuổi. Ngày 20/4/1979, Bộ trưởng Bộ Văn hóa – Thông tin đã công nhận chùa Bối
Khê là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đặc biệt.
Chùa Bối Khê
Theo sử sách thế đất của Bối Khê có đầy đủ cả Tứ linh và Ngũ
xà, trên những phiến và dải đất cao mang dáng hình những con vật (Long, Ly,
Quy, Phượng, Xà). Thời nhị vua Hai Bà Trưng khởi nghĩa năm 40, đây gọi là “Trầm
Bối Trang” đã có làng mạc đông vui và nhị vua Hai Bà Trưng cùng đại quân qua
đây lấy thêm lương thực và bổ sung thêm quân.
Chỗ nhị vua Hai Bà nghỉ lại, chỗ đóng quân cùng với gò đống,
cánh đồng của làng có các nhiều tên khác nhau từ đây như: Vườn Đào, gò Đống Hai,
xứ Đồng Văn, Màn Đen, Man Vôi, Man Xim, Man Cuốc và Cánh Đồng Cái.
Ở vùng Thanh Oai từ nhiều đời nay đã có câu truyền ngôn “Đỗ
Đông Giang Khai Thanh Oai sinh Thánh”. Sông Đỗ Đông nối sông Đáy với Sông Nhuệ,
có đoạn chảy qua Bối Khê đã cạn Thành Dộc, ở thế kỷ 14 còn chảy mạnh.
Chùa Bối Khê là một ngôi chùa đặc trưng cho dạng thức
"tiền Phật, hậu Thánh". Chùa thờ Phật ở phía trước. Tuy nhiên các pho
tượng được văn bia mô tả trước thời Nguyễn đều không còn, chỉ trừ hai pho tượng
Quan âm nghìn mắt nghìn tay và Bà Hậu (thời Mạc) ở vị trí tôn chủ của Thượng điện.
Điều này để hiện tính Mật tông và Tịnh độ tông đã lấn lướt tính Thiền tông.
Chùa Bối Khê là một ví dụ điển hình cho sự hòa quyện giữa Phật
giáo và Đạo giáo. Chùa thờ Đức Thánh Bối ở phía sau. Chùa Bối Khê có một Thánh
điện với nhiều tượng thờ nhất trong số các chùa "tiền Phật hậu Thánh"
hiện biết. Điều này thể hiện rõ nét tính chất hòa nhập tôn giáo ở ngôi chùa đồng
bằng Bắc Bộ.
Đức Thánh Bối là nhân vật lịch sử - tôn giáo, tạo nên mối
quan hệ đặc biệt giữa chùa Bối Khê và chùa Trăm Gian đồng thời là sự liên kết
giữa hai làng, hai vùng đất (Bối Khê - Tiên Lữ/Tứ Bích) trên phương diện tôn
giáo. Hai ngôi chùa đều thờ chung Thánh Nguyễn Bình An. Cũng do thờ chung Thánh
nên từ xưa, hai làng đã có tục "kết chạ" (tức là kết nghĩa anh em)
duy trì cho tới ngày nay.
Thánh Bối Khê là người có thực, đó là vị thiền sư đắc đạo sống
giữa thời Trần. Ngài thuộc dòng họ Nguyễn sinh năm Tân tỵ (1281) đời vua Trần
Nhân Tông, năm 7 tuổi ngài mồ côi cả cha và mẹ, phải ở nhà cô để chăn trâu cắt
cỏ.
Sớm có lòng từ bi hướng Phật. Ngài thường lui tới chùa làng
nghe giảng Kinh vào mùa hanh khô, thường rủ bạn bè tát cả vũng nước đem tôm cá
bắt được thả ra sông hay lấy đất nặn chùa, nặn tượng và đem cơm nắm oản cũng lễ.
Vốn thông minh tuấn tú và thông tuệ khác thường, khi cậu của
Ngài mời thầy về dạy cho con thì Ngài thường đứng ngoài cửa nghe, ông thầy thấy
ham học đem lòng yêu mến nên đã dạy thêm cho về ban đêm.
Sau Ngài thành người tài cao học rộng và có tấm lòng từ bi
vô lượng. Năm 15 tuổi Ngài xuất gia lấy hiệu là Đức Minh Tự nghĩa là Bình An đến
tu ở chùa Trang An tục gọi là chùa Sở, cạnh núi Đồng Lanh, xã Tiên Lữ Hoài Đức,
làm môn đệ của Thiền Sư Phạm Cốc nổi tiếng bấy giờ.
Năm 1205, Ngài vào chùa Hương Tích thỉnh giáo Long Vương
Châu Nhân, học được phép Đảo Vũ. Năm Hưng Long thứ 13 (1307 đại hạn, Vua Trần
Anh Tông triệu ngài về kinh Thăng Long làm lễ cầu đảo được trận mưa suốt 3
ngày, do đó, nhà vua đã tặng ngài bốn chữ “Đức Minh Châu Nhân”.
Khi đang ở kinh đô được tin sư trưởng quy tiên, Ngài về chịu
tang, đến bến đò Đông Dương (Thanh Oai) thì trời tối, mọi người hốt hoảng vì gần
đấy có tiếng hổ gầm, thấy vậy Ngài đọc thần chú, liền có chiếc thuyền hiện ra
đưa mọi người qua sông.
Sau 3 năm chịu tang thầy, Ngài về thăm quê (Bối Khê), đến
trước mộ cha mẹ khấn vái, tự nhiên trời tối sầm sáu khắc rồi có nấm hình chữ nhật
nổi lên, các thửa ruộng đều dãn ra nên không nhà nào mất ruộng. Trở lại Tràng
An thấy chùa hư nát, Ngài cho xây dựng lại.
Ngày khởi công, thợ và nhân dân các nơi đến quá đông, gần
trưa ngài lấy gạo cho vào nồi đất và bảo mọi người nấu cơm. Cơm đang sôi Ngài
nói với mọi người rằng chưa có thức ăn nên thấy sẽ về Bối Khê xin cà và muối,
nói rồi Ngài nhún chân không thấy đâu nữa, khi cơm cạn Ngài đã quay về đến nơi,
ngài đi mây về gió, các dấu tích vẫn còn ở làng Tiên Lữ, Đồng Hoàng Thượng
Thanh, Bối Khê, khi qua Bình Đà, một quả cà đã rơi xuống liền tạo thành giếng,
ngài đem cà và muối bầy đầy đủ một trăm đĩa, xới đủ một trăm mâm, một trăm mâm
xới hết lại đầy.
Đến năm 95 tuổi (1375) ngài cho làm một khám son để ở mé tả
điện trong chùa, mời dân trong vùng và học trò đến dặn rằng “nay thấy số trời
đã hết, thầy vào khám ngồi đủ một trăm ngày, thơm thì thờ, tanh hôi thì cho an
táng ở sau chùa.
Nhưng mới được 3 tuần thì có hương thơm và hào quang toả ra,
mọi người vui mừng đem hương cúng tế và báo cho các làng. Sau đó Bối Khê cùng
mười làng xung quanh mang kiệu đến rước bát Phủ Hương vê thờ và nhận anh em kết
nghĩa với làng Tiên Lữ (sau này ngày hội chính ở Tiên Lữ là mùng 4 tháng giêng,
ở Bối Khê là ngày 12 tháng giêng).
Sự tích Đức Thánh Bối nhiều chi tiết giống sự tích của hai
Thánh Từ Đạo Hạnh và Nguyễn Minh Không đời lý 1225, có phép khinh công đi mây về
gió. Sau Đức Thánh Bối đời đầu Lê, vùng đất Bối Khê còn có hai nhân vật nổi tiếng
được giới nho học đặc biệt ngưỡng mộ và ghi vào sử sách là hai cha con cụ Nguyễn
Thi Trung, Nguyễn Trực (Lưỡng quốc Trạng Nguyên) Sau hai cha con cụ Thi Trung
vào thời Lê, Bối Khê còn ba vị đỗ đại khoa là Nguyễn Quỳnh, Hoàng Bá Dương, Lê
Huy Trâm.
Thời Lê Trung Hưng, ở Bối Khê còn có hai quận Công Võ là Lê
Đình Thọ và Lê Tiến Quý. Năm 1945 đến 1954 Bối Khê được xứng đáng là làng tiêu
tiểu trong kháng chiến chống Pháp, có 3km hầm địa đạo, có liệt sĩ Trần Duy
Phương và nhiều người con khác của làng đã đóng góp xương máu của mình cho sự
nghiệp giải phóng đất nước.
Chùa Bối Khê là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đặc
biệt. Người thăm quan vào chùa qua hệ thống cổng ngũ môn và cầu là tới tam quan
gồm ba gian bằng gỗ theo kiểu hai tầng tám mái. Phía trên tam quan là gác
chuông.
Tên chữ của chùa là Đại Bi tự (chữ Hán:大悲寺),
chữ bi nguyên nghĩa là "buồn khổ", gắn liền với cụm "đại từ đại
bi" hay "từ bi" là ngôn ngữ Phật giáo chỉ lòng thương xót con
người vô hạn của Phật. Chữ "Đại Bi" kết hợp với tượng thờ tại chùa
cho thấy nhiều khả năng ngôi chùa vào thời Lý chỉ giành riêng thờ Quan Âm nghìn
mắt nghìn tay của Mật tông. Tuy nhiên chùa thường được gọi là chùa Bối Khê do
chùa dựng trên đất làng Bối Khê. Sau Cách mạng tháng Tám, hai làng Bối Khê và
Phúc Khê hợp nhất lại thành một thôn mới tên là Song Khê.
Lịch sử
Theo nhiều nhà nghiên cứu (Trần Lâm Biền, Chu Quang Trứ, Hà
Văn Tấn) phân tích, so sánh phong cách nghệ thuật trang trí, kiến trúc ở nhiều
chùa thì Bối Khê được cho là xây dựng vào khoảng năm 1338, thời Trần. Niên đại
này được công nhận rộng rãi trong giới nghiên cứu. Tuy nhiên có giả thiết chùa
được khởi dựng từ thời Lý, căn cứ trên khối đá chạm phong cách thời Lý được
phát hiện năm 1999 và các văn bia niên hiệu Thái Hòa (1454), Hồng Thuận (1515)
đặt tại chùa, văn bia niên hiệu Gia Long (1805) hiện ở Quán Thánh (xã Tiên
Phương, Chương Mỹ). Các văn bia này có nhiều đoạn ghi khá rõ khả năng chùa được
lập từ thời Lý và mang tên Đại Bi.
Ngôi chùa thời Lý có lẽ đã bị hủy hoại và được trùng tu lớn
vào thời Trần. Nhiều kiến trúc và mảng chạm khắc (rồng ở bẩy, chim Garuda ở góc
đao) cho thấy niên đại đầu thời Trần. Một điểm đặc biệt trong việc xác định
niên đại ở chùa Bối Khê là các nhà nghiên cứu đã tiến hành xét nghiệm đồng vị
C14, cho biết niên đại tuyệt đối của một cấu kiện kiến trúc (đấu thuyền kê thượng
lương) là 640 ± 50 năm cách ngày nay.
Như vậy có thể khẳng định chùa có niên đại ít nhất là từ thời
Trần (thế kỉ XIV). Ngoài ra, các văn bia, chi tiết kiến trúc, chạm khắc trang
trí và đồ thờ tự trong chùa (một số mang minh văn ghi niên đại tuyệt đối) cho
thấy việc trùng tu tôn tạo được diễn ra liên tục xuyên suốt các thời kỳ Lê Sơ,
Mạc, Lê Trung Hưng và thời Nguyễn. Việc trùng tu, mở rộng chùa có thể được thống
kê lại dựa trên văn bia và cổ vật.
Tam quan được dựng vào năm 1603 thời Lê Trung hưng. Hạng mục
kiến trúc này vừa được sửa chữa vào năm 2006. Kiến trúc chính của chùa Bối Khê
được bố cục theo kiểu “tiền Phật, hậu Thánh”, trên diện tích 5.000m2. Việc thờ
Phật được bố trí ở tòa tiền đường và tiền bái. Tiếp đó đến tòa thiệu hương và
thượng điện là nơi thờ thánh. Nhìn tổng thể, ngôi chùa có hình “nội công ngoại
quốc” bởi hai bên có hai dãy hành lang.
Sang đầu thế kỉ XIX, chùa Bối Khê đã bị xuống cấp nặng nề.
Năm 2004, Bộ Văn hóa và Thông tin, Uỷ ban nhân dân tỉnh Hà Tây phê duyệt
"Dự án đầu tư bảo tồn, tu bổ, tôn tạo và phục hồi di tích chùa Bối
Khê" do đơn vị tư vấn thiết kế là Văn phòng tư vấn và chuyển giao công nghệ
xây dựng (Trường Đại học Kiến trúc Hà Nội) với tổng dự toán đầu tư hơn 13 tỷ đồng.
Sở Văn hóa - Thông tin Hà Tây đã tổ chức khởi công bảo tồn, tu bổ lại chùa.
Theo đó, hạng mục nhà Tổ, nhà Mẫu đã được dịch chuyển theo
hướng Bắc; đồng thời di dời toàn bộ diện tích và cơ sở vật chất Trường Tiểu học
Tam Hưng nằm ở phía trước bên phải Ngũ Không Môn để mở rộng khuôn viên và kè giếng
hai bên sân trong ngôi chùa.
Kiến trúc
Tàu đao lá mái ở Điện Thánh
Theo trục Tây - Đông (từ ngoài vào), chùa Bối Khê có các kiến
trúc lần lượt gồm: năm tháp mộ, đền Đức Ông, sân ngoài, đường lát gạch, Ngũ
Không Môn (gồm năm cổng), cầu gạch qua sông Đỗ Động, tam quan, chùa Phật (tiền
đường, thiêu hương, thượng điện, hai hành lang), cung Thánh (đại bái, ống muống,
hậu cung). Từ chùa Phật đến cung Thánh được bao bằng vòng tường xây tạo thành dạng
kiến trúc nội (nhị) công ngoại quốc. Ngoài vòng tường chữ "quốc" (囯) còn có một số
kiến trúc khác ở phía Nam và ao, giếng, vườn cây.
Chùa Bối Khê là một điển hình của dạng chùa cụm đồng bằng với
nhiều lớp kiến trúc gỗ kéo dài theo trục dọc, mở rộng theo tuyến ngang. Đây là
một nét mới của kiến trúc Phật giáo Việt Nam, bắt đầu xuất hiện từ thời Trần.
Tất cả các công trình kiến trúc tại chùa đều mang đặc trưng
kiến trúc Việt ngoại trừ công trình cuối cùng là Điện Thánh xuất hiện đấu củng.
Trong kết cấu kiến trúc chùa Bối Khê sử dụng rất nhiều đấu kê trên bộ khung nhà
nhưng về mặt kết cấu hoàn toàn khác với đấu củng ở tòa Điện Thánh.
Ngũ Không Môn
Ngũ Không Môn và cầu dẫn đến Tam quan được xây bằng gạch,
trang trí với phong cách Nguyễn muộn (cuối thế kỉ XIX - đầu thế kỉ XX) với các
đề tài tứ linh, hoa trái, voi ngựa đắp bằng vữa và vẽ lên tường. Niên đại tuyệt
đối của Ngũ Môn là 1899. Đây chính là biểu hiện cho tính chất đền thờ của cả quần
thể chùa, khẳng định tính hỗn hợp của việc thờ cúng tiền Phật hậu Thánh.
Chùa được xây trên một khu đất khá rộng rãi, với phần cổng tách biệt bên ngoài, qua cây cầu gạch và một con đường rồi mới vào đến chùa. Cổng chùa cũng là loại năm cổng- ngũ quan (ngũ môn), khác với cổng tam quan thường thấy, phía trên có gác mái và có lối lên. Cây cầu bắc qua hào nước nhỏ, tương truyền là một phần của sông Đỗ Động.
Tam quan
Tam quan là sản phẩm của nhiều thời kỳ trùng tu khác nhau,
song còn lại rõ rệt là thời Nguyễn. Tam quan có hai tầng, tám mái, một gian -
hai chái. Chức năng vừa làm cửa ra vào chùa Phật vừa làm Gác chuông. Dấu vết
tam quan thời Trần, thời Lê Trung Hưng thể hiện ở chân tảng hoa sen và đầu rồng
trên đầu dư tầng hai.
Gác chuông chùa.
Được xây dựng đầu thế kỷ 14, chùa trải qua tám đợt trùng tu lớn vào các đời Lê Sơ, Mạc, Lê Trung Hưng và Nguyễn. Hiện nay, kiến trúc và phần nhiều các mảng chạm của chùa mang dáng dấp thời Nguyễn. Có thể nói, chùa hội tụ rất nhiều những nét kiến trúc, mỹ thuật tiêu biểu của nhiều thời kỳ, một phần do yếu tố trùng tu có giữ lại những vật liệu của thời kỳ trước để tận dụng.
Chùa Phật
Phần chùa Phật gồm Tiền đường, Thiêu hương, Thượng điện, hai
hành lang. Tiền đường gồm một tòa bảy gian: một giữa, hai bên, hai hồi, hai
chái. Kết cấu bộ vì theo kiểu "chồng rường - giá chiêng", ngoài ra
còn kết cấu kẻ góc cột trốn để nối với hành lang.
Gạch bó nền tòa nhà này rõ rệt phong cách Mạc với rồng, phượng,
sư tử bố cục trong các khung hình chữ nhật và tròn. Thiêu hương có cùng một cao
độ nền với tiền đường, kiến trúc tương tự. Thiêu hương và Tiền đường đều có bộ
khung niên đại thời Nguyễn.
Cận cảnh bộ đấu củng và chạm khắc ở Hậu cung
Thượng điện là kiến trúc một gian - hai chái độc lập. Riêng
Thượng điện là kiến trúc có nhiều cấu kiện mang niên đại từ thời Trần. Các cột
Thượng điện lớn và thấp, bộ vì kèo có cốn hình lá đề. Đầu các bẩy chạm hình rồng
thời Trần, một số đầu đao còn có cả chim thần Garuda.
Tuy nhiên, nếu xét về
tổng thể thì Thượng điện ngày nay mang đậm dấu ấn thời Mạc (bộ vì chồng rường -
giá chiêng, các cấu kiện mập và kích thước lớn, đầu rồng trên đầu xà mặt trước)
và cả thời Nguyễn (cột, nền, thành phần bao che, bộ mái). Các dấu vết Trần, Mạc,
Nguyễn nói trên đã bị xóa sổ khi tiến hành sửa chữa lớn năm 1995.
Điện Thánh - Hậu Cung
Phần Điện Thánh gồm ba đơn nguyên kiến trúc: Đại bái, ống muống
và Hậu cung theo hình chữ công (工). Điện Thánh được nối với hai
hành lang của chùa Phật ở hai gian chái của tòa Đại bái, tạo thành hai chữ
"công" và tổng thể "nội (nhị) công ngoại quốc".
Hậu cung điện Thánh là một tòa nhà có mặt bằng gần vuông,
kích thước 5,58m × 5,55m (hai cạnh chênh nhau có thể do bộ khung xô lệch qua thời
gian). Tòa Hậu Cung này là một ví dụ hiếm hoi về hình thức kiến trúc đấu củng tại
Việt Nam. Tuy nhiên khách tham quan ít có dịp chiêm ngưỡng từ bên trong vì khu
vực Hậu cung là nơi linh thiêng, không mở cửa rộng rãi.
Tòa nhà có kết cấu chồng diêm, tàu đao lá mái. Nhưng lá tàu ở
đây có kích thước hẹp hơn các cấu trúc không có đấu củng. Ngoại trừ củng đặt
trên bốn đầu cột góc, nhìn xa có thể thấy mỗi mặt mái có 3 cụm củng 3 tầng, kiểu
"một đấu hai thăng" hình chữ V.
Khác với củng ở gác chuông chùa Keo (Thái Bình), củng ở đây
đều là củng xuyên, vừa nhô ra đỡ tầng mái, vừa hỗ trợ hàng xà phía trong. Kẻ
góc của cả mái dưới và mái trên đều gác lên các cụm đấu củng ở đầu cột quân và
cột cái.
Tuy nhiên, chức năng và kết cấu của củng ở góc đao hoàn toàn
khác với củng ở rìa mái. Củng ở 4 góc là củng xuyên chuyển góc, còn củng ở rìa
mái là củng hai phương, một chiếc đặt ở trung tâm còn hệ thống đấu ở hai bên củng
trung tâm là đấu chạm nổi trên ván. Vì vậy củng ở rìa mái chỉ là giả củng. Một
đặc điểm khác của củng ở chùa Bối Khê là củng không có loan cong.
Cây sen đất
Một bông hoa "sen đất" giống như hoa ở chùa Bối
Khê
Trong vườn chùa Bối Khê có hai cây sen đất, hoa thường có 9
đến 10 cánh lớn trắng ngần, hương thơm ngát, trông như đóa hoa sen, nhụy xanh
vàng, ra hoa từ tháng tư đến tháng sáu âm lịch, nở khoảng một tuần mới tàn.
Tương truyền, người ta đã từng sang chiết đem cây hoa này trồng ở nơi khác
nhưng hầu như không sống được, nên người dân Bối Khê xem như báu vật của làng.
Cây hoa sen đất này chính là hình ảnh "cành sen" trong các bài ca
dao, dân ca mà thường bị nhầm lẫn rằng hoa sen thì không có cành như:
Đêm qua tát nước đầu đình
Bỏ quên cái áo trên cành hoa sen
hay như câu:
Lên chùa bẻ một cành sen
Ăn cơm bằng đèn đi cấy sáng trăng
Nhiều nguồn thông tin đã tùy tiện cho rằng hiện nay chỉ ở
chùa Bối Khê mới có loài hoa sen quý hiếm này, khiến cho cây sen đất chùa Bối
Khê trở nên nổi tiếng. Trong thực tế, đây là một loài cây phổ biến trên thế giới,
không có tài liệu nào nói nó khó trồng đến mức như thế. Cây sen đất này còn gọi
là "Bạch liên sen", tên khoa học là Magnolia grandiflora, thuộc chi Mộc
lan. Người Trung Quốc gọi là "Hà hoa ngọc lan" (荷花玉兰), Người Nhật gọi
là "Thái sơn mộc" (泰山木 – Taisanboku).
Ở Việt Nam, loài sen đất cũng được rất nhiều nhà sư chọn trồng,
như trong khuôn viên chùa Quán Sứ có một cây, chùa Lý Quốc Sư cũng có một cây,
nhưng cây ít được mọi người để ý tới bởi đều hiếm khi ra hoa. Trước đây, sen đất
còn mọc bạt ngàn ở vùng cánh cung Đông Triều (Quảng Ninh), trên các dãy núi Yên
Tử, núi Đỉnh Hương, núi Bảo Đài. Chứng tỏ loài sen đất này đã được lựa chọn để
gắn liền với nhiều nơi tu hành đạo Phật và Thiền phái Trúc Lâm từ thời Lý - Trần.
Hầm và địa đạo
Phía sau khuôn viên chùa còn lưu giữ hầm kiểu mẫu thời kỳ
kháng chiến chống Pháp. Hầm được ông Vũ Song, Bí thư Thành ủy Hà Đông (cũ) chỉ
đạo đào tháng 1 năm 1948, có ba ngách chính, thông tới điện Phật, chạy qua đền
thờ Nguyễn Trực (gần chùa Bối Khê) và chạy vòng quanh làng Bối Khê.
Hệ thống hầm là địa đạo quy mô, có tác dụng chuyển quân dưới
lòng đất, là nơi phòng thủ vững chắc. Hiện nay, các hầm trong xã và các xã lân
cận đều đã bị bịt chặt, duy chỉ có hầm trong chùa Bối Khê vẫn giữ được một cửa
và địa đạo dài khoảng 7m.
Tại căn hầm lịch sử này, dân làng Bối Khê đã tiêu diệt tổng
cộng 372 lính Pháp. Căn hầm còn gắn liền với chiến tích của nữ du kích Phạm Thị
Đe, người đã nằm 7 ngày liền trong hầm không có cơm ăn, nước uống khi quân Pháp
đóng trong làng. Đến ngày thứ tám quân Pháp rút, bà gắng sức lên cửa hầm và bị
ngất. Hiện nay, hầm Bối Khê đã được chỉnh trang và tu sửa lại 7m địa đạo
Đáng chú ý ở tòa tiền đường là hệ thống cột bằng đá xanh.
Trên các cột đá có chạm nhiều đôi câu đối ca ngợi cảnh chùa. Bên trái tiền đường
có một am nhỏ thờ bà công chúa thời Mạc đã có công tu sửa chùa. Hai dãy hành
lang ở hai bên được xây dựng song song, mỗi bên có bảy gian. Nơi đây thờ 18 vị
La Hán.
Chùa Bối Khê còn nhiều hiện vật quý giá như có tới 10 tấm
bia, trong đó bia cổ nhất là “Bối động thánh tích bi ký” có từ năm Thái Hòa thứ
11 (1453) nhưng cũng là tấm bia mới nhất vì được khắc lại năm Thành Thái thứ 7
(1895) kể lại sự tích đức Thánh Bối với nhiều tình tiết ly kỳ.
Tiếp theo là bia “Đại bi tự” dựng năm Hồng Thuận thứ 7
(1515) ngoài việc nói thêm về đức Thánh Bối còn cho biết việc tu sửa chùa ở đầu
thế kỷ XVI. Hiện vật đá đặc biệt quý hiếm là chiếc bệ hoa sen khối hộp, các góc
chạm chim thần, trên chạm đài sen, dưới chạm sập thờ, mặt trước có chạm rồng và
nhiều loài thú, do vị đạo sỹ ở Quốc Oai cúng tiến. Ngày 20/4/1979, Bộ VHTT đã
công nhận chùa Bối Khê là di tích kiến trúc nghệ thuật cấp Quốc gia đặc biệt.
Di vật và điêu khắc
Thềm gạch với nhiều lớp văn hóa chồng lên nhau.
Bức chạm giống hình thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh.
Bức chạm giống hình thầy trò Đường Tăng đi thỉnh kinh.
Những bức chạm tươi tắn, gần như còn nguyên vẹn.
Bức chạm long lân vô cùng tỉ mỉ và tinh xảo.
Hình hai con nai đùa giỡn nhau bị ngã.
Bậc thềm phía trước thượng điện còn lưu giữ vết tích của gạch cả thời Mạc và thời Lê, với hoa văn và linh vật trang trí chạm nổi còn gần như nguyên vẹn. Các mảng chạm gỗ của chùa phần lớn là từ thời Nguyễn. Các mảng chạm này độc đáo ở chỗ, thay vì những mô típ quen thuộc như tùng, cúc, trúc, mai, sen, rồng, phượng, hay tiên… thì một số mảng chạm lại mô tả tích thầy trò Đường Tăng đi lấy kinh, hoặc hai con ngựa (hoặc nai) giỡn chơi với nhau ngã chổng vó… Một số mảng chạm còn xuất hiện ở cả phần mặt dưới của vì mái, nơi mà phần lớn các chùa khác thường để trơn, không chạm khắc gì.
Trang trí hình chim thần Garuda trên bệ tượng. Ảnh: NGÔ VƯƠNG ANH.
Hệ thống đồ thờ của chùa Bối Khê có số lượng tương đối lớn,
có thể chia làm hai dạng chính:
Đồ thờ nhân cách: Đồ thờ nhân cách gồm có tượng thờ và những
thứ liên quan đến tượng. Tổng số tượng thờ có trong chùa là 92 pho. Có một số
tượng bị mất, đã thay thế bằng tượng khác ít giá trị nghệ thuật hơn.
Tượng thờ ở Điện Phật: Tổng số có 27 tượng gỗ ở khu thờ Phật
(20 pho ở Thượng điện, 4 pho ở Thiêu hương, 3 pho ở Tiền đường). Hai hành lang
chạy song song có 18 tượng La Hán bằng đất.
Tượng thờ ở Điện Thánh: Tổng số 27 tượng gỗ, bố trí ở hai
khu chính Đại Bái và Hậu Cung. Khu Đại bái có 13 pho đặt thành 4 cụm chia đều ở
hai bên nối với hành lang. Tượng ở Hậu cung có 14 pho bằng gỗ, được chia thành
2 nhóm: một nhóm 4 pho ở hai nhang án chính giữa, nhóm kia 10 pho bố trí chia đều
hai bên nhang án chính, hai gian chái, sát vách Hậu Cung.
Đồ thờ phi nhân cách: Bao gồm nhang án và những thứ có liên
quan, văn bia và sắc phong, sập đặt kiệu thờ, 2 chậu “cây mệnh” (theo cách gọi
của dân làng), Đồ thờ tự ở Bối Khê khá nhiều, có một số đồ quý bị mất. Đồ bị mất
gồm có 5 chân đèn gốm men, bát hương thời thời Mạc, tất cả đều có minh văn.
Đồ thờ ở chùa Bối Khê hầu hết là di sản của thời Nguyễn. Một
số đồ thờ có giá trị nghệ thuật: ban thờ đá hoa sen thời Trần, mảng đá móng bệ
hoa sen chạm phong cách trang trí thời Lý, các bia đá từ Lê Sơ đến Nguyễn, hai
cây hương đá.
Trong các pho tượng của chùa thì Tượng Quan Âm Nam Hải thời
Mạc (hay còn gọi là Tượng Quan âm thiên thủ thiên nhãn, Quan âm nghìn mắt nghìn
tay) có giá trị nghệ thuật cao nhất với bố trí nhịp điệu tay rất cân xứng và biến
động. Tượng gỗ phủ sơn cao 2,53m (bệ gỗ 94 cm) đặt trên bệ đá hoa sen thời Trần.
Hai bên đặt tượng Kim Đồng, Ngọc Nữ thời Nguyễn, cao 1,35m.
Tượng Quan Âm ngồi tư thế bán Kiết già, áo không tay chạy lượn
biên, gặp lá sen sau lưng, phía trước phủ qua vai chảy xuống lòng đùi, gập xô
nhiều lớp trên mặt bệ. Bệ đài sen bốn tầng ken nhau, khối nở đều, dưới nữa là bệ
lục giác có quỷ đội đài sen. Tượng có 14 tay với 7 đôi đối xứng qua thân:
Đôi thứ nhất: ngang đầu, nâng mặt trăng - mặt trời
Đôi thứ hai: cao vừa, ngón tay bắt ấn, đóng mở nửa vời, thu
vào - búng ra
Đôi thứ ba: lòng bàn tay hướng về phía trước
Đôi thứ tư: chắp trước ngực
Đôi thứ năm: đặt trên lòng
Đôi thứ sáu: đặt trên đầu gối tay ngửa, tay úp
Đôi thứ bảy: chống thẳng sau mông, các ngón khép lại và duỗi
trên mặt bệ
Sắc phong của chùa còn lưu giữ khá nhiều trong đó có các đạo
sắc phong vào các năm Thịnh Đức (1656), Vĩnh Thọ (1660), Cảnh Trị (1670), Dương
Đức (1674), Chính Hòa (1683), Vĩnh Thịnh (1710), Vĩnh Khánh (1730), Cảnh Hưng
(1740, 1763, 1767, 1783), Chiêu Thống (1787), Minh Mệnh (1821), Thiệu Trị
(1844), Tự Đức (1880), Đồng Khánh (1887), Duy Tân (1909).
Chuông cổ còn hai quả đúc năm Thiệu Trị (1844) và Duy Tân
(1908).
Hậu cung thờ Đức thánh Bối.
Hậu cung thờ Đức thánh Bối, với kiểu kiến trúc hai tầng tám mái, bằng gỗ, với nhiều mảng chạm tinh xảo, cầu kỳ mang họa tiết hoa sen, hoa cúc, rồng, mây…
Lễ hội chùa diễn ra vào ngày 12 tháng Giêng âm lịch hằng
năm. Tương truyền, Đức Thánh Bối khi còn sống vẫn đi lại giữa hai làng Tiên Lữ
(làng Sở) và làng Bối Khê chỉ bằng vài bước chân. Đến năm 95 tuổi, Nhà sư Nguyễn
Bình An cho đóng khám gỗ. Đêm 12 rạng ngày 13 tháng Chạp vào khám ngồi và dặn đệ
tử là sau một trăm ngày thì mở ra xem, nếu thấy thơm thì rút mây làm tượng thờ,
mà thối thì đổ ra sông Cái.
Nhưng mới 21 ngày, dân đã hé khám xem. Thấy hào quang và
hương thơm bèn kéo nhau lên chùa làm lễ. Hôm ấy là ngày mồng 4 tháng Giêng. Dân
Bối Khê nghe tin cũng kéo lên, xin rước thi hài Thánh về quê Bối Khê, nhưng dân
làng Sở không nghe. Cuối cùng, ngày 12 tháng Giêng, dân Bối Khê bèn xin duệ hiệu
và rước bát nhang về thờ vọng. Từ đó dẫn đến việc kết chạ giữa hai làng Bối Khê
- Tiên Lữ và là thành tố quan trọng của hội chùa Trăm Gian cũng như hội chùa Bối
Khê.
Sự giao hảo kết chạ giữa hai làng Bối Khê và Tiên Lữ trải
qua thời gian vẫn được duy trì cho đến nay. Sáng ngày mồng 4 tháng Giêng, đoàn
đại biểu Bối Khê sang dự hội chùa Trăm Gian gồm 8 cụ ông và 8 cụ bà. Đoàn sang,
được dân Tiên Lữ gọi là các cụ “sãi quan anh”.
Đến hội chùa Bối Khê 12 tháng Giêng, đoàn đại biểu của “tứ
bích” Tiên Lữ gồm đại diện 4 thôn: Nội, Thượng, Phương Khê (xã Tiên Phương,
Chương Mỹ) và thôn Thổ Ngõa (xã Tân Hòa, Quốc Oai), sang dự cũng có số người
như vậy và cũng được gọi là “sãi quan anh”.
Khi đón tiếp dân anh Bối Khê, làng Tiên Lữ bình chọn trong
“tứ bích” mỗi thôn 2 người: phải là người cao tuổi, có uy tín trong dân, đạo
cao đức trọng, đủ tư cách để tiếp các cụ sãi quan anh.
Khi tiếp chuyện phải nói năng từ tốn, lễ độ, nhún nhường hàn
huyên thân tình sau một năm xa cách. Việc đón tiếp dân anh gọi là chứa sãi. Chi
phí chứa sãi được lấy từ 7 sào ruộng do làng cấp để tổ chức 2 bữa cơm (trưa
ngày mồng 4, sáng ngày mồng 5) và một bữa nước (tối ngày mồng 4). Cỗ chứa sãi rất
to, bày trên mâm vuông, hai tầng với đầy đủ các món chay như giò, nem, chả,
xôi, chè... trưa ngày mồng 5 dân anh Bối Khê lại nhà.
Đến sáng 12 tháng Giêng, “tứ bích” lại cử đoàn sang dự hội
chùa Bối Khê. Để đáp lại, dân anh Bối Khê mang pháo sang Tiên Lữ lễ thánh và tặng
lan cảnh, các cụ Tiên Lữ lại mang những cây thông giống sang làm quà.
Để đón tiếp các cụ sãi quan anh Tiên Lữ, dân Bối Khê cũng chọn
đủ 8 người với tiêu chí tương tự như tứ bích. Chi phí chứa sãi ở Bối Khê cũng
do dân làng lo đủ để tổ chức 3 bữa cơm nước tương tự. Trưa ngày 13 tháng Giêng,
dân anh trở về thì hội Bối Khê cũng đi vào hồi kết.
Trong lễ hội chùa Bối Khê có rước lễ và hội thi đốt pháo đầu
xuân trong nghi lễ đánh trống thiêng. Ngoài hội, ở chùa Bối Khê còn có những
nghi lễ cầu mưa được tổ chức khi trời nắng mãi không mưa.