Chùa Mỹ Cụ tên chữ là Linh Sơn Tự. Đây được coi là một trong những ngôi chùa lâu đời nhất của huyện Thủy Nguyên, cũng như của thành phố Hải Phòng.Tương truyền song thân vua Lê Đại Hành đã đến chùa cầu tự sau đó sinh ra vua, tức là vào khoảng thế kỷ thứ X chùa đã được xây dựng.
Lịch sử hình thành
Theo các văn bia,thư tịch cổ ghi lại, chùa có từ trước thời
tiền Lê.Chùa cổ trên núi, ẩn hiện trong những cây cổ thụ um tùm.Văn tự cổ nhất
còn lại ở chùa là cây Thạch trụ dài niên hiệu Chính Hòa (1680 – 1705) đời vua
Lê Hy TôngChùa nằm tựa lưng vào một núi đất nhỏ chạy dài có tên là “Núi con rồng”.
Địa điểm xây dựng chùa là một đầu của dãy núi đó có tên “đầu
phượng”, dân gian có câu ca “linh sơn núi phượng”. Chùa quay hướng nam trong một
địa thế rất đẹp hai bên có “Hổ phục Quy chầu”, Tổng thể chùa được thiết kế theo
ba tầng cao dần từ chân núi lên.
Tam quan chùa Mỹ Cụ - Linh sơn tự
Chùa Mỹ Cụ tên thuộc thôn Mỹ Cụ, xã Chính Mỹ, huyện Thủy
Nguyên, ngoại thành Hải Phòng.Nằm ở vị trí đắc địa trên dãy núi Phượng Hoàng
thuộc làng Mỹ Cụ nên chùa được nhân dân địa phương lấy tên làng làm tên cho dễ
gọi, dễ nhớ.
Tương truyền, song thân vua Lê Đại Hành đã đến chùa cầu tự,
sau đó sinh ra vị vua thay thế triều Đinh, mở ra triều Lê với nhiều dấu ấn đáng
kể trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa là ngôi chùa đã tồn
tại cách đây hơn 11 thế kỷ.
Chùa Mỹ Cụ có lịch sử lâu đời, tuy vẫn chưa khẳng định được
niên đại khởi dựng chính xác nhưng nếu căn cứ theo câu chuyện dân gian về việc
cầu tự của song thân Lê Hoàn thì chùa có từ trước
Các hạng mục kiến trúc gồm: tam quan, bái đường, phật điện,
nhà tổ, chùa Cao. Ngoài ra còn một dãy nhà là nơi sinh hoạt của những vị trông
coi chùa.
Chùa nằm theo thế ngũ linh: phụng, long, quy, hổ , tượng.
Phía trước cách chùa vài trăm mét là núi hình con hổ, bên trái là núi con rùa,
sau lưng là một dải núi đá xanh ôm lấy lưng chùa gọi là rồng xanh. Phía trước mặt
chừng hơn 10km là núi Voi thuộc huyện An Lão chầu về chính giữa chùa.
Kiến trúc hiện tại vẫn giữ nguyên hiện trạng cách bố trí các
công trìng theo thứ tự: Thượng – Trung – Hạ.Phía trên là ngôi chùa nhỏ (còn gọi
là chùa Cao) dành để thờ đức Quan Âm Tống Tử và phật Tuyết Sơn, thấp hơn 1 chút
là nhà Tổ, phía dưới là khu Tam Bảo theo lối chữ “Đinh”, bao gồm Tiền Đường (5
gian) và Phật Điện (3 gian).
Chung quanh ngôi chùa cổ kính này là rừng cây thông, tùng,
bách rậm rạp. Phía trước cửa chùa là vườn cây ăn quả chủ yếu là vải, nhãn tỏa
bóng xum xuê, rợp mát. Dưới khu tam bảo là tam quan.ở hai bên của tam quan là 2
hồ nước trong vắt, được ví như mắt Phượng.c thời nhà Đinh (968-980).
Qua thời gian, dấu tích kiến trúc xưa đã dần mờ nhạt, không
gian kiến trúc hiện tại chính là kết quả của nhiều đợt tu sửa (gần đây nhất vào
năm Nhâm Ngọ 1942). Kiến trúc hiện tại vẫn giữ nguyên hiện trạng cách bố trí
các công trìng theo thứ tự: Thượng - Trung - Hạ.
Phía trên là ngôi chùa nhỏ (còn gọi là chùa Cao) dành để thờ
đức Quan Âm Tống Tử và phật Tuyết Sơn, thấp hơn 1 chút là nhà Tổ, phía dưới là
khu Tam Bảo theo lối chữ “Đinh”, bao gồm Tiền Đường (5 gian) và Phật Điện (3
gian). Sự kết hợp hài hoà giữa những đường nét kiến trúc cổ kính và hiện đại
trong không gian chùa được thể hiện ở lối kiến trúc tam quan, đây là một công
trình tam quan có quy mô vào loại lớn nhất của thành phố Hải Phòng; hạng mục
này được hoàn thành vào năm 2001, góp phần tôn thêm vẻ bề thế của không gian
ngoại thất chùa Mỹ Cụ.
Qua các tài liệu để lại, trên mảnh đất này cách đây 700 năm
(1230 – 1291) một nhà thơ, một nhà quân sự, danh nhân văn hóa, nhà tư tưởng, cư
sỹ với tên gọi Hưng Ninh Vương Trần Tung đạo hiệu Tuệ Trung Tượng Sỹ - người thầy
của Trúc Lâm sơ tổ - nhà thiền học bậc thầy của thiền tông Việt Nam trong một
thời đại thịnh vượng của phật giáo văn hóa dân tộc đã về lập tĩnh thất tại thái
ấp Dưỡng Chân xưa (nay là Chính Mỹ).
Tại đây ngài vui với cuộc sống ẩn dật thanh cao khiêm nhường,
từ nhỏ ngài đã mộ đạo từ bi của đức Phật nên sau này ngài chuyên tâm nghiên cứu
thiền học, nắm vững yếu chỉ phật giáo, ngài đề xướng những châm ngôn để dẫn dắt
lớp hậu học đi tới vầng sáng của cuộc đời.
Rất may, Nguyên sử và sách An Nam chí lược của Lê Trắc có viết
như sau: Trần Tung là con trai đầu của An Sinh Vương Trần Liễu, là anh cả của
Trần Quốc Tuấn... Trong chiến tranh chống Nguyên Mông lần thứ hai (1284 – 1285)
ông đã cùng với em trai là Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn trực tiếp chỉ huy cánh
quân lớn tấn công mặt trận phía Đông buộc quân Nguyên phải rút bỏ Thăng Long
lui về Vạn Kiếp...
Sau chiến thắng quân Nguyên, ngài được giữ chức Tiết Độ Sứ
vùng Duyên hải. Vốn không ham danh lợi ngài xin từ chức về đất Dưỡng Chân để sống
cuộc đời thanh nhàn. Trải qua hơn 700 năm nay vẫn còn dấu tích cánh đồng Trang
học, giếng đá và cầu rửa của trường, ở làng Dưỡng Chính, Chính Mỹ còn dấu vết
tĩnh thất Dưỡng Chân của ngài.
Trong cuốn sách của Trần Khắc Chung (đời vua Trần Nhân Tông)
có đoạn: “ Thượng sĩ Trần Tung là ngọn đèn tổ của Phật hoàng, lấy tâm để truyền
tâm. Xưa kia Đức Phật bỏ ngôi vương giả, rời cỗ xe vàng đến ngồi dưới gốc cây bồ
đề, khai diễn phép võ thượng thừa, cứu độ chúng sinh...thượng sĩ thực đã mở
mang lĩnh ngộ được phép thần ấy”.
Từ đó đến nay, các nhà nghiên cứu Phật giáo nước ta đều tiếp
nối đánh giá rất cao coi ông là nhà thiền học bậc thầy nước ta. Đã có rất nhiều
cuộc hội thảo về thân thế sự nghiệp của ông và sách của ông được phiên âm ra chữ
quốc ngữ.
Đến nay, ngôi chùa này còn giữ lại được văn tự cổ nhất chính
là cây Thạch trụ đài niên hiệu Chính Hòa (1680 – 1795) đời vua Lê Hy Tông ghi lại
việc trùng tu, xây dựng chùa. Một số bia đá, một quả chuông đồng ghi niên hiệu
Hoàng Triều Minh Mệnh thập lục niên tương ứng năm 1836. Quang cảnh trong chùa
thật đẹp, hiện trên núi vẫn còn một cây tùng cao lớn, bề thế được các nhà
nghiên cứu đánh giá cây này được trồng cách đây khoảng 700 năm. Sau ngần ấy năm
những biến động về không gian, thời gian nhưng dấu ấn về con người ấy, ngôi
chùa ấy không hề bị mai một mà ngày càng được tu bổ, trùng tu để xứng tầm với lịch
sử.
Trong cái nắng mùa thu, đi giữa khu vườn cổ kính với các tầng
tháp trải qua bao lớp thời gian, rêu phong phủ kín, tôi cứ tự nhủ rằng, không
bao lâu nữa ngôi chùa này cũng sẽ được trả về cho xứng tầm với thời gian, với lịch
sử. Giờ đây cạnh ngôi chùa này một bức tượng về ông Trần Tung được đặt tại
chính khu đất tịnh thất Dưỡng Chân nhằm tôn vinh nhà thiền học bậc thầy, một
danh tướng, một nhà ngoại giao lỗi lạc đời Trần.
Mong rằng, cùng với núi non Yên Tử, vùng đất Dưỡng Chân sẽ
mãi ghi dấu một danh nhân của đất nước Việt Nam. Cũng hi vọng rằng địa danh này
sẽ được nằm trong tua du khảo đồng quê của Hải Phòng. Cùng với di tích đền Trạng
Nguyễn Bỉnh Khiêm, thành nhà Mạc ở Dương Kinh... sẽ tạo cho du khách hiểu thêm
về đất và người Hải Phòng. Di tích này rất mong được thành phố Hải Phòng quan
tâm và trả về cho lịch sử những giá trị nguyên bản của nó.
Sông Thu