Chùa Ngũ Xá, tên chữ là Thần Quang Tự, nằm tại địa chỉ số 44 phố Ngũ Xã, phường Trúc Bạch, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Chùa thờ Phật và ông tổ nghề đồng Nguyễn Minh Không nổi tiếng do sở hữu pho tượng đồng A Di Đà lớn nhất Việt Nam.
Ngôi chùa được xây dựng vào thời kỳ Hậu Lê, thế kỷ XVIII, với
sự tôn kính đối với Phật và ông tổ nghề Đúc đồng Nguyễn Minh Không, từ đó mang
tên ”Thần Quang”, theo danh xưng của vị quốc sư này, người đã sáng lập nhiều
chùa khác như chùa Cổ Lễ (Nam Định), chùa Keo (Thái Bình),… Chùa thuộc phái Bắc
tông.
Xưa kia chùa thuộc thôn Ngũ Xã, tổng Thuận Thành, huyện Vĩnh
Thuận. Chùa gồm hai toà nhà hai tầng liền kề hình “chữ nhị” thông với nhà tả vu
giáp đài tưởng niệm liệt sĩ và lưng đình Ngũ Xã.
Do gặp hỏa hoạn, năm 1949, Hòa thượng Thích Mật Đắc đã quyết
định xây dựng lại hoàn toàn với kiến trúc hiện đại, và công trình này hoàn
thành vào năm 1951.
Năm 1952, Hòa thượng Thích Mật Đắc tiếp tục chỉ đạo việc xây
dựng lại chùa theo kiến trúc hiện đại. Tượng Phật A Di Đà, được đúc bằng đồng
và đặt ở chánh điện, là một trong những tượng đồng lớn nhất Việt Nam hiện nay.
Quá trình đúc tượng diễn ra từ năm 1949 đến năm 1952, với
chiều cao 3,95m, khoảng cách giữa hai đầu gối là 3,60m, chu vi là 11,60m và trọng
lượng là 10 tấn. Tượng đồng được đặt trên đài Sen có tổng cộng 96 cánh, cao
1,45m, chu vi 15m, và trọng lượng là 3,9 tấn.
Chùa còn có một lư hương bằng đồng nặng 300 kg, cao 0,76m,
cùng hai cây đèn bằng đồng, mỗi cây nặng 300 kg, cao 1,2m. Ngoài ra, chùa còn
giữ lại 16 bia đá được dựng từ năm 1919 đến năm 1947.
Vào ngày 11-5-1993, cả chùa Thần Quang và đình Ngũ Xá đã được
xếp hạng là Di tích kiến trúc nghệ thuật quốc gia, theo Quyết định số 534 QĐ/BT
của Bộ trưởng Văn hoá—Thông tin. Người trụ trì hiện nay là Đại Đức Thích Chính
Tín, là ủy viên Ban trị sự Thành hội Phật giáo Hà Nội.
Kiến trúc chùa
Chùa Thần Quang được thiết kế với hai toà nhà hai tầng liền
kề, có hình dạng “chữ nhị”. Tam quan của chùa hướng về hướng nam, mở ra mặt phố
Ngũ Xá. Cổng chính của chùa có kiến trúc hai tầng tám mái lợp ngói ống, với các
ô tượng đắp nổi trên diềm cổ giữa hai tầng.
Cổng này có cửa ra vào hình vuông với 6 cánh gỗ, và mỗi bên
cổng có một con sư tử đá chầu bậc tam cấp và một bảo tháp nhỏ 9 tầng gắn trên cột
trụ của bức tường hoa. Cổng phụ có kiểu thiết kế tương tự nhưng thấp và không
có các trang trí nhiều như cổng chính.
Sau cổng chính là một hòn non bộ nhỏ, làm nhiệm vụ làm bình
phong trấn phong thủy, sau đó là 13 bậc thềm dẫn lên hàng hiên rộng mở vào các
gian thờ ở tầng trên. Hai bên thềm có đôi tượng rồng đá uốn khúc, miệng ngậm ngọc.
Dù khuôn viên của chùa không rộng, nhưng diện tích sử dụng
khá lớn do được thiết kế theo kiến trúc hiện đại với kết cấu bê tông cốt thép,
cho phép nâng chiều cao và chịu tải nặng.
Tầng trên của nhà chùa có tiền đường với 5 gian, tất cả đều
có cửa võng, trần cao, và sàn lát gỗ. Gian giữa là chính điện thờ Tam bảo, hai
gian hành lang dẫn vào toà thiêu hương và hậu cung có cặp tượng Hộ pháp đứng trấn.
Các gian bên trái và bên phải thờ các vị thần linh khác nhau
theo tín ngưỡng Việt Nam. Trên cao có các cửa sổ nhỏ để lấy ánh sáng tự nhiên,
và dưới hai đầu hồi đặt hương án thờ gia tiên và bày đồ tế khí phục vụ cho các
buổi lễ cầu siêu.
Chùa còn có một hương án phụ thờ Quán thế âm Bồ tát, đặt ở
góc cuối hàng hiên, cạnh bậc thang thông sang toà nhà bên phải. Tầng trên của
toà nhà này chứa 3 gian thờ, với sàn cao hơn nhưng trần thấp hơn so với khu nhà
chính.
Các gian thờ này thờ các Thánh Mẫu, Quan Tam thánh, và sư Tổ.
Nhà khách và nhà Tăng nằm ở tầng dưới, với lối vào nối với sân ngắn. Một cây muỗm
già vượt qua hiên gác treo quả chuông nhỏ và vươn lên toả bóng xuống mái chùa.
Ban chính điện tòa Tam Bảo
Tượng phật A Di Đà trên tòa Sen
Ban thờ Quan Thế Âm Bồ Tát
Cung Sơn Trang, Ban thờ Bà chúa Thượng Ngàn.
Chùa giữ được 16 tấm bia đá được dựng trong giai đoạn từ năm
1919 đến 1947, và may mắn không hề bị hỏng khi xảy ra hoả hoạn. Ngoài ra, có một
số đồ thủ công mỹ nghệ quý giá khác, trong đó nổi bật là bộ lư hương bằng đồng
nặng 300kg, cao 0,76m, và cặp chân đèn cũng bằng đồng, mỗi cây nặng 300kg, cao
1,2m. Ngôi chùa cùng với các hiện vật bên trong thể hiện tâm huyết của Phật tử
và tài năng của các nghệ nhân đúc đồng nhiều thế hệ tại đây.
Đặc trưng nổi bật
Điện Phật, nơi được bài trí một cách tôn nghiêm, đặc biệt nổi
bật với pho tượng Phật A Di Đà khổng lồ, đánh dấu một công trình nổi tiếng từ
nhiều khía cạnh. Nghệ nhân Nguyễn Khắc Hiếu đã tạo mẫu, và thợ đúc Nguyễn Văn
Tùng đã làm khuôn và chỉ huy quá trình đúc trong quá trình xây dựng lại chùa.
Ngoài những đóng góp của những tâm huyết từ thiện và sự ủng
hộ của khách thập phương, tượng còn chứa đựng giá trị lịch sử đặc biệt, do được
đúc từ đồng của tượng cố Toàn quyền Đông Dương Paul Bert và phiên bản tượng Nữ
thần Tự do.
Cả hai tượng này đều biểu tượng cho sự khai hoá của Pháp và
đã bị nhân dân kéo đổ vào mùa xuân năm 1945. Trần Văn Lai, thị trưởng Việt Nam
đầu tiên của Hà Nội trong thời kỳ đó, đã quyết định đem từ công viên và bỏ vào
kho.
Ngoài giá trị lịch sử và nghệ thuật, pho tượng này còn nổi bật
với kích thước lớn, phá vỡ kỷ lục về tượng đồng lớn nhất vào giữa thế kỷ XX. Tượng
Phật ngồi ở tư thế toạ thiền, làm từ đồng đen, cao 3,95m, với hai đầu gối cách
nhau 3,60m, chu vi 11,60m, và nặng 10 tấn. Bệ tượng là một tòa sen có 96 cánh,
cao 1,45m, chu vi 15m, và nặng 3,9 tấn.
Điều đặc biệt là lượng đồng được sử dụng để đúc tượng được
thu thập từ các pho tượng tôn vinh chế độ thuộc địa, được chính phủ Bảo hộ xây
dựng ở các vườn hoa trong thành phố Hà Nội. Cụ thể là tượng toàn quyền Paul
Bert ở vườn hoa Paul Bert (hiện là vườn hoa Lý Thái Tổ), tượng Nữ thần Tự do trên
Tháp Rùa và tượng Canh nông ở vườn hoa Robin (hiện là vườn hoa Lê Nin).
Chùa đã được Bộ Văn hóa – Thông tin công nhận là Di tích lịch
sử – văn hóa quốc gia năm 1995.
Nguồn: Chốn Thiêng