Chùa Thiên Niên có nguồn gốc là chùa Bát Tháp thời Lý Nam Đế, dành cho hai công chúa con vua sau khi đi học pháp thuật trừ diệt hồ tinh về trụ trì thắp hương niệm Phật. Hằng năm các quan trong triều về đây làm lễ quốc tế.
Chùa Trích Sài hay chùa Sài, tên chữ Thiên Niên tự, là một
ngôi chùa làng có ít nhất từ đầu thế kỷ 18. Địa chỉ: góc ngã tư Xuân La - Lạc
Long Quân - Vệ Hồ, phường Bưởi, quận Tây Hồ, tp Hà Nội. Chùa mới đây đã được đại
trùng tu và công nhận Di tích văn hoá cấp quốc gia.
Chùa Thiên Niên, một di tích lịch sử cấp quốc gia, nằm trong
quần thể di tích ở phía đầu làng Trích Sài. Trước đây quần thể này có gò Bát
Tháp, núi Ngũ Nhạc, đàn trừ Hồ tinh, miếu trấn trị yêu quái.
Chùa Trích Sài hay chùa Sài, tên chữ Thiên Niên tự, là một ngôi chùa làng có ít nhất từ đầu thế kỷ 18. Địa chỉ: góc ngã tư Xuân La - Lạc Long Quân - Vệ Hồ, phường Bưởi, quận Tây Hồ, tp Hà Nội. Chùa mới đây đã được đại trùng tu và công nhận Di tích văn hoá cấp quốc gia.
Chùa Thiên Niên, một di tích lịch sử cấp quốc gia, nằm trong quần thể di tích ở phía đầu làng Trích Sài. Trước đây quần thể này có gò Bát Tháp, núi Ngũ Nhạc, đàn trừ Hồ tinh, miếu trấn trị yêu quái.
Chùa Thiên Niên nhìn từ vệ tinh
Lược sử
Chùa toạ lạc ven bờ tây Hồ Tây, nơi
làng Trích Sài giáp làng Xuân La, cả hai đều là những làng cổ của Kẻ
Bưởi, ngày nay thuộc phường Bưởi, quận Tây Hồ, tp Hà Nội. Thời Lý-Trần,
vùng Bưởi thuộc phủ Ứng Thiên bên ngoài thành Thăng Long. Thời Hậu Lê
thuộc phủ Phụng Thiên. Thời Nguyễn, năm Gia Long thứ 4 (1805) phủ Phụng
Thiên đổi tên thành phủ Hoài Đức (khác huyện Hoài Đức của trấn Sơn Tây).
Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) phủ Hoài Đức thuộc tỉnh Hà Nội; từ ngày
6-12-1904 cắt về tỉnh Hà Đông, năm 1942 lại nhập vào Hà Nội.
Tam quan cũ của chùa Thiên Niên. Photo NCCong ©2011
Theo sử cũ, trước khi dựng chùa Thiên Niên nơi đây có chùa Bát Tháp từ thời Lý Nam Đế dành cho hai công chúa con vua sau khi đi học pháp thuật trừ diệt hồ tinh về trụ trì thắp hương niệm Phật. Hằng năm các quan trong triều về đây làm lễ quốc tế.
Đến thời Lê Thánh Tông (1460-1497), nhà vua cắt một nửa thôn Trích Sài cho các cung phi và dựng miếu cho các cung phi thờ cúng niệm Phật. Trước miếu có chùa Bát Tháp dựng trên nền đất thấp, nhà vua cho rời lên khu đất cao và đổi tên là chùa Thiện Niên.
Đình làng Trích Sài cùng với đình làng Võng Thị thờ ông Mục Thận làm thành hoàng làng. Thần Mục Thận có công cứu vua Lý Nhân Tông thoát khỏi âm mưu hãm hại của thái sư Lê Văn Thịnh trong một lần nhà vua đi du ngoạn hồ Tây.
Cứ đến ngày 6-9 âm lịch hằng năm, nhân dân lại tổ chức giỗ ông Mục Thận. Am Gia Hội hay còn gọi am Trích Sài thờ ba công chúa Phúc-Lộc-Thọ gắn với việc trừ loài hồ tinh.
Tục truyền hai công chúa con vua Lý Nam Đế một lần đến núi Long Đỗ ven hồ Tây thuộc địa phận làng Trích Sài thấy có loài cáo chín đuôi chuyên làm hại dân trong vùng. Hai nàng lập đàn trừ cáo nhưng không được liền đón Vạn Thọ phu nhân là pháp thuật cao đến lập đàn.
Bà cùng hai công chúa vừa cúng xong thì rừng cây mất nhiều, cáo chín đuôi chạy hết, song bà Vạn Thọ phu nhân theo dông bão mà hóa. Vua Lý Nam Đế cho lập đền thờ ba, gọi là Kim mẫu hóa thân. Khi hai công chúa con vua là Vạn Phúc và Vạn Lộc hóa, đền lại phụ thờ cả hai bà.
Đời Hồng Đức (1470–1497) một cung nữ Champa do vua Lê Thánh Tông mang về từ phương nam [1] là Phạm Thị Ngọc Đô đã cùng 24 thị tỳ rời kinh thành ra sống ở ven Hồ Tây. Vua ban cho họ 80 mẫu đất thôn Trích Sài để lập trang Thiên Niên, ý muốn được bền vững lâu dài. Tương truyền các bà đã dựng chùa và miếu ở đây, lại truyền nghề dệt lĩnh và dạy cách trồng dâu, nuôi tằm cho dân.
Điện thờ Mẫu ở chùa Thiên Niên. Photo ©NCCong 2012
Đến đời Minh Mạng (1820–1841) ngôi chùa tại trang Thiên Niên được xây lại và mang tên Thiên Niên cổ tự. Từ năm 1893 trở đi chính thức có sư trụ trì. Trong chùa hiện còn một tấm bia đá ghi niên hiệu Vĩnh Thịnh thứ năm (1709) là minh chứng xưa nhất cho thấy chùa ít ra cũng đã tồn tại qua hơn ba thế kỷ từ thời Lê trung hưng đến bây giờ.
Phủ thờ Mẫu ở chùa Thiên Niên. Photo ©NCCong 2012
Đầu TK 21, chùa Thiên Niên cùng một số di tích khác của làng Trích Sài đã được Bộ Văn hoá Thể thao và Du lịch đánh giá, xếp hạng và tổ chức trùng tu nhân dịp chuẩn bị Đại lễ mừng sự kiện 1000 năm Thăng Long – Hà Nội. Tiếp theo, sư trụ trì đã cho sửa hướng và sắp xếp lại vị trí các công trình trong khuôn viên. Cho nên các bạn cần chú ý đến thời điểm chính xác của các bức ảnh chụp ngôi chùa này.
Tiền đường chùa Thiên Niên. Photo ©NCCong 2012
Kiến trúc
Ảnh vệ tinh chụp sau khi trùng tu cho thấy Tam quan cũ (đánh dấu sao) đã bị đập bỏ hoàn toàn, xung quanh chỗ đó nay là một khu vườn rộng. Dãy tường dài của chùa Thiên Niên xây cao nhưng ta vẫn có thể nhìn thấy mái toà Tam bảo và các ngọn tháp từ ngoài phố Vệ Hồ, con đường mới đặt tên ngày 9-12-2011 sau khi thành phố cho làm kè bao quanh Hồ Tây. Quang cảnh chùa rộng rãi và đẹp đẽ vì chỉ cách mặt nước mênh mông hơn chục bước chân.
Cổng tam quan mới (dấu mũi tên) xây khá đồ sộ và mở về hướng tây ra vỉa hè của đường Lạc Long Quân thoáng đãng, thuận tiện cho du khách tới thăm. Qua cổng ta bước vào một sân dài chạy thẳng về hướng đông, bên trái là khu vườn thứ hai. Bên phải cổng có phủ thờ Mẫu mới xây, gồm hai toà nhà 5 gian 2 dĩ nằm song song với nhau thành hình chữ “Nhị”. Trước mặt phủ là một sân rộng áp vào nhà hậu cung sâu 3 gian của toà Tam bảo.
Nhà Tổ của chùa Thiên Niên. Photo ©NCCong 2012
Chùa chính cũng rộng 5 gian 2 dĩ, kết cấu với hậu cung theo
hình chuôi vồ, tuy nhiên khi xây lại đã xoay mặt sang hướng đông. Toà Tam bảo
nhìn qua một sân nhỏ và vườn cây thẳng ra Hồ Tây. Bên trái tiền đường là một sân
nhỏ khác và toà nhà Tổ 5 gian, vẫn quay mặt về hướng nam như cũ. Sau lưng nhà Tổ
có một khu vườn với 8 ngôi tháp mộ của các sư Tổ (trùng hợp với tên Bát Tháp).
Các tháp trước kia lô nhô khác nhau và quét vôi trắng, nay dịch chuyển về phía
hồ và xây to cao hơn, bên ngoài giống nhau, để gạch trần màu đỏ.
Di vật
Ở chính điện chùa Thiên Niên có đôi câu đối chữ Hán, tạm
phiên âm như sau:
Tiền tu Bát Tháp di tung phế dã tất hữu hưng Lãng Bạc hồ đầu
khôi Tịnh độ
Hậu khởi Thiên Niên hiển xướng tân chi dĩ tồn cựu Sài Trang
địa diện ngật linh khu.
Tạm dịch là:
Trước sửa sang dấu lưu Bát Tháp, phế nhưng ắt lại chấn hưng,
hồ Lãng Bạc tinh khôi cõi Phật
Sau dựng nên hiển tích Thiên Niên, mới mà vẫn còn giữ cũ,
trang Trích Sài sừng sững đất thiêng.
Chính điện chùa Thiên Niên. Photo ©NCCong 2012
Chùa hiện lưu giữ 34 pho tượng tròn, ghi niên đại từ thế kỷ 18 đến TK 20. Lại có một nguồn tư liệu quý bao gồm 7 bia đá, tấm cổ nhất được dựng vào năm 1709. Một tấm bia do nhà sư Phan Văn Tựu soạn khắc vào năm 1901 cho biết vào cuối đời Lê, có quan Thái bảo Đà Quốc công Mạc Ngọc Liễn đã giúp tu sửa lại chùa và cúng ruộng hậu; trong nhà Tổ, ở ban thờ bên trái có tượng của ông.
Vườn tháp sau nhà Tổ ở chùa Thiên Niên. Photo ©NCCong 2012
Truyền thuyết
Trích Sài có nghĩa là đốn củi. Xưa kia Hồ Tây có rừng rậm xung quanh, ngoài việc đốn củi và săn bắn, dân làng thường làm nghề đánh cá và bắt trai, ốc, hến, tôm, cua. Khi dân làng Trích Sài xây đình cũng đã tôn ông lão đánh cá Mục Thận làm thành hoàng làng [2]. Sân đình có đôi rồng đá, tương truyền thời thành Thăng Long bị binh hỏa, dân làng rước từ đó về.
Đình Trích Sài, Văn chỉ và am Gia Hội nhìn từ vệ tinh
Đình nay ở số 223 phố Trích Sài, bên trái Văn chỉ của làng. Bên phải Văn chỉ có am Gia Hội, nơi lưu giữ sự tích trừ hồ tinh của hai nàng công chúa con vua Lý Nam Đế. Trước kia vùng này có gò Bát Tháp, núi Ngũ Nhạc và nhiều nơi ẩn nấp các loài ác thú được coi như yêu quái. Nghe nói nền am vốn là một đàn tế để trấn trị hồ tinh, hàng năm có lễ quốc tế ở đây.
Cổng đình Trích Sài. Photo NCCong ©5-2014
Vùng Bưởi không chỉ giàu về nghề làm giấy mà còn được biết
tiếng bởi lĩnh hoa. Lĩnh Bưởi mát mẻ, nhẹ nhàng, óng ả, không dính và không
nhàu. Từ xưa đã có câu ca dao đúc kết những sản phẩm dệt chất lượng cao của các
làng nghề thủ công xung quanh Hà thành như sau:
The La, lĩnh Bưởi, chồi Phùng
Lụa vân Vạn Phúc, nhiễu vùng Mỗ bên.
Ngày mùng 5 tháng Giêng hàng năm dân làng Trích Sài lại tổ
chức tế lễ tưởng niệm bà Tổ nghề dệt lĩnh Phạm Thị Ngọc Đô, dù như không còn ai
nối nghề dệt tay. Trang ấp nay đã thành phố xá nhưng bóng chùa Thiên Niên vẫn
nhắc nhở chúng ta nhớ về truyền thống văn hoá phong phú xưa kia của một vùng
ven Hồ Tây.
Tam quan am Gia Hội. Ảnh: ©NCCong2012
[1] Theo Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, trước nạn Vương quốc Chiêm Thành (Champa) thường xuyên xâm lấn châu Hoá, năm 1471 vua Lê Thánh Tông công bố chiếu thư đánh Chiêm rồi thân chinh dẫn 200.000 quân tiến vào nam. Tháng 3 năm ấy chiếm kinh đô Đồ Bàn (hay Chà Bàn, tức Vijaya), 40.000 lính Chiêm tử trận, vua Trà Toàn và hơn ba vạn người Chiêm bị bắt làm nô lệ. Tháng 6-1471, lãnh thổ Champa bị sáp nhập, trở thành thừa tuyên Quảng Nam và vệ Thăng Hoa.
[2] Mục Thận vốn là thành hoàng của làng Võng Thị bên cạnh làng Trích Sài, ông nổi tiếng qua sự tích cứu vua Lý Nhân Tông trên hồ Dâm Đàm.
Ths Nguyễn Thy Ngà tổng hợp