Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến Trung ương tập quyền ở Việt Nam với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống - dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội.
Cố đô Hoa Lư là quần thể di tích quốc gia đặc biệt quan trọng
của Việt Nam đồng thời là một trong 4 vùng lõi của quần thể di sản thế giới
Tràng An đã được UNESCO công nhận. Hệ thống di tích ở Hoa Lư liên quan đến sự
nghiệp của các nhân vật lịch sử thuộc ba triều đại nhà Đinh, nhà Tiền Lê và khởi
đầu nhà Lý, tính từ Đinh Tiên Hoàng đến Lý Thái Tông trong lịch sử.
Phong cảnh cố đô nhìn từ núi Mã Yên
Hoa Lư là kinh đô đầu tiên của nhà nước phong kiến Trung
ương tập quyền ở Việt Nam với các dấu ấn lịch sử: thống nhất giang sơn, đánh Tống
- dẹp Chiêm và phát tích quá trình định đô Hà Nội.
Cửa Đông vào Đền vua Đinh Tiên Hoàng và vua Lê Đại Hành
Năm 1010 vua Lý Thái Tổ dời kinh đô từ Hoa Lư (Ninh Bình) về
Thăng Long (Hà Nội), Hoa Lư trở thành Cố đô.
Các triều vua Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau đó dù không đóng đô ở
Hoa Lư nữa nhưng vẫn cho tu bổ và xây dựng thêm ở đây nhiều công trình kiến trúc
như đền, lăng, đình, chùa, phủ… Khu di tích lịch sử Cố đô Hoa Lư hiện nay có diện
tích quy hoạch 13,87 km² thuộc tỉnh Ninh Bình. Với bề dày thời gian hơn 1000
năm, Cố đô Hoa Lư là nơi lưu trữ các di tích lịch sử qua nhiều thời đại.
Lịch sử Kinh đô Hoa Lư
Nằm trên địa bàn giáp ranh giới 2 huyện Hoa Lư, Gia Viễn và
thành phố Ninh Bình của tỉnh Ninh Bình, kinh đô Hoa Lư xưa (tức khu di tích Cố
đô Hoa Lư hiện nay) là vùng đất phù sa cổ ven chân núi có con người cư trú từ rất
sớm. Các nhà khảo cổ học đã phát hiện trầm tích có xương răng đười ươi và các động
vật trên cạn thuộc sơ kỳ đồ đá cũ thuộc nền văn hóa Tràng An và nhiều hang động
có di chỉ cư trú của con người các thời kỳ văn hoá Hoà Bình, Bắc Sơn, Đông Sơn
và Đa Bút.
Quần thể di sản thế giới Tràng An ở Hoa Lư còn lưu giữ nhiều
di vật của người tiền sử từ 30.000 năm trước. Thời Hồng Bàng nơi đây thuộc bộ
Quân Ninh. Thời An Dương Vương, vùng này thuộc bộ lạc Câu Lậu.
Từ thời thuộc Hán qua Tam Quốc đến thời Nam Bắc triều, vùng
cố đô Hoa Lư thuộc huyện Câu Lậu, quận Giao Chỉ. Sang thời thuộc Đường, vùng
này thuộc Trường châu.
Trong thời nhà Ngô, vùng này là nơi cát cứ của Đinh Bộ Lĩnh.
Ông ly khai đã đẩy lui thành công cuộc tấn công của chính quyền trung ương Cổ
Loa năm 951 do 2 anh em Thiên Sách vương Ngô Xương Ngập và Nam Tấn vương Ngô
Xương Văn đích thân chỉ huy. Cho tới khi nhà Ngô mất, đây vẫn là vùng cát cứ của
Đinh Bộ Lĩnh.
Năm 968, Đinh Bộ Lĩnh dẹp xong loạn 12 sứ quân, lên ngôi
hoàng đế và đóng đô ở Hoa Lư, nơi đây trở thành trung tâm chính trị của nước Đại
Cồ Việt. Từ năm 968 đến năm 1009, có 6 vị vua (Đinh Tiên Hoàng, Đinh Phế Đế, Lê
Đại Hành, Lê Trung Tông, Lê Long Đĩnh, Lý Thái Tổ) thuộc 3 triều đại đóng đô tại
đây.
Thời kỳ này, Hoa Lư là nơi diễn ra nhiều hoạt động ngoại
giao giữa các triều đình nước Đại Cồ Việt với triều đình nhà Bắc Tống (Trung Quốc):
thời Đinh 2 lần (năm 973, 975), thời Tiền Lê 10 lần (980, 985, 986, 987, 988,
990, 995, 996, 997, 1007).
Năm 1010, Lý Thái Tổ dời đô về Thăng Long, cho hoàng tử Lý
Long Bồ trấn thủ đất này. Từ đó đến thời Trần, vùng này thuộc lộ Trường Yên.
Nhà Trần sử dụng thành Nam Trường Yên của cố đô Hoa Lư để làm cứ địa kháng chiến
chống quân Mông Nguyên. Vua Trần Thái Tông xây dựng ở Hoa Lư hành cung Vũ Lâm,
đền Trần thờ thần Quý Minh và chùa A Nậu. Cung Vũ Lâm là nơi các vua Trần xuất
gia tu hành.
Đầu thời Lê sơ, vùng cố đô Hoa Lư nhập vào Thanh Hóa, từ thời
Lê Thánh Tông lại tách ra, thuộc phủ Trường Yên, thừa tuyên Sơn Nam.
Qua thời Nam Bắc triều, từ thời Lê trung hưng tới thời Tây
Sơn, vùng này thuộc phủ Trường Yên thuộc trấn Thanh Hoa ngoại. Từ cải cách hành
chính của vua Minh Mạng nhà Nguyễn năm 1831, vùng này thuộc tỉnh Ninh Bình. Từ
ngày 27 tháng 12 năm 1975, tỉnh Ninh Bình hợp nhất với các tỉnh Nam Định và Hà
Nam thành tỉnh Hà Nam Ninh rồi lại tái lập ngày 26 tháng 12 năm 1991, vùng cố
đô Hoa Lư trở lại thuộc tỉnh Ninh Bình.
Khu di tích Cố đô Hoa Lư
Ngày 29/4/2003, Thủ tướng chính phủ Việt Nam ra quyết định
82/2003/QĐ-TTG việc việc bảo tồn, tôn tạo và phát huy giá trị lịch sử của khu
di tích cố đô Hoa Lư. Theo Quyết định này, toàn bộ khu di tích Cố đô Hoa Lư nằm
trên địa bàn giáp ranh giới 2 huyện Hoa Lư, Gia Viễn và thành phố Ninh Bình của
tỉnh Ninh Bình.
Đây là khu vực khá bằng phẳng nằm trong hệ thống núi đá vôi
kéo dài từ tỉnh Hòa Bình xuống. Khu di tích lịch sử văn hóa Cố đô Hoa Lư có diện
tích 13,87 km² bao gồm:
Vùng bảo vệ đặc biệt có diện tích 3 km² gồm toàn bộ khu vực
bên trong thành Hoa Lư, trong vùng có các di tích lịch sử: đền Vua Đinh Tiên
Hoàng, đền Vua Lê Đại Hành, lăng vua Đinh, lăng vua Lê, đền thờ Công chúa Phất
Kim, chùa Nhất Trụ, phủ Vườn Thiên, bia Câu Dền, chùa Kim Ngân, hang Bim, chùa
Cổ Am, chùa Duyên Ninh, phủ Chợ, sông Sào Khê, một phần khu sinh thái Tràng An
và các đoạn tường thành, nền cung điện nằm dưới lòng đất...
Vùng đệm có diện tích 10,87 km² gồm cảnh quan hai bên sông
Sào Khê và quần thể Tràng An. Trong vùng có các di tích lịch sử: động Am Tiên,
hang Quàn, hang Muối, đình Yên Trạch, chùa Bà Ngô, hang Luồn, hang Sinh Dược,
hang Địa Linh, hang Nấu Rượu, hang Ba Giọt, động Liên Hoa, đền Trần, phủ Khống,
phủ Đột, hang Bói...
Các di tích liên quan trực tiếp gồm các di tích không nằm
trong 2 vùng trên nhưng có vai trò quan trọng đối với quê hương và sự nghiệp của
triều đại nhà Đinh như chùa Bái Đính, cổng Đông, cổng Nam, động Thiên Tôn, động
Hoa Lư, đền thờ Đinh Bộ Lĩnh và quần thể di tích thờ Vua Đinh ở Ninh Bình...
Đền thở Công chúa Phất Kim
Phủ Đột (Đền Trình) Tràng An
Các nhóm di tích
Ngay sau khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, dân chúng từ bên
ngoài kéo vào kinh thành sinh sống. Chính vì vậy mà ngoại trừ khu trung tâm
cung điện giới hạn bởi ba cửa: cửa Bắc, cửa Đông và cửa Nam thì rất nhiều các
công trình kiến trúc của cố đô Hoa Lư hiện tại nằm rải rác trong khu dân cư.
Các di tích do 2 triều Đinh-Lê xây dựng gồm: dấu tích kinh
thành, cung điện, các chùa cổ và các đền thờ thần. Các di tích do các triều đại
sau xây dựng gồm hệ thống lăng mộ, đền, đình thờ các danh nhân thời Đinh Lê.
Tuy nhiên, các di tích thường có sự pha trộn kiến trúc do hoạt
động tu bổ vì vậy mà các nhà nghiên cứu phân nhóm các di tích Hoa Lư theo loại
di tích. Từ những di tích này các nhà nghiên cứu có thể hình dung được hình thức
bố trí cung điện của kinh đô xưa.
Kiến trúc đền thờ
Đền Vua Đinh Tiên Hoàng và đền Vua Lê Đại Hành được xây dựng
từ thời nhà Lý và xây dựng lại từ thời Hậu Lê theo kiểu nội công ngoại quốc và
mô phỏng kiến trúc kinh đô xưa là 2 di tích quan trọng của khu di tích. Trước mặt
đền Đinh là núi Mã Yên có hình dáng giống cái yên ngựa, trên núi có lăng mộ vua
Đinh.
Đền Đinh Tiên Hoàng là một công trình kiến trúc độc đáo
trong nghệ thuật chạm khắc gỗ của các nghệ sĩ dân gian Việt Nam ở thế kỷ 17 và
là công trình nghệ thuật đặc sắc với nhiều cổ vật quý hiếm được bảo tồn, như gạch
xây cung điện có khắc chữ Đại Việt quốc quân thành chuyên, cột kinh Phật khắc
chữ Phạn, các bài bia ký…
Chính cung đền thờ Đinh Tiên Hoàng và 3 hoàng tử: Đinh Liễn,
Đinh Đế Toàn và Đinh Hạng Lang. Tòa thiêu hương đền có bài vị thờ 4 vị quan
trung thần là Nguyễn Bặc, Đinh Điền, Trịnh Tú, Lưu Cơ. Trong nhà Khải Thánh có
tượng thờ quốc lão Đinh Công Trứ và thái hậu Đàm Thị là phụ mẫu của Đinh Tiên
Hoàng.
Đền Vua Lê Đại Hành nằm cách đền vua Đinh Tiên Hoàng 300
mét. Đền vua Lê quy mô nhỏ hơn nên không gian trong đền khá gần gũi và huyền ảo.
Nét độc đáo ở đền thờ vua Lê Đại Hành là nghệ thuật chạm gỗ thế kỷ 17 đạt đến
trình độ điêu luyện, tinh xảo. Tương truyền, bà mẹ mơ thấy hoa sen mà sinh ra
Lê Hoàn, trong lúc đi cấy ở cạnh ao sen. Bà đã ủ Lê Hoàn trong khóm trúc và được
con hổ chúa rừng xanh ấp ủ. Sau lời cầu xin của bà mẹ con hổ bỏ đi.
Vì vậy mà nghệ thuật điêu khắc gỗ dân gian Việt Nam của các
nghệ nhân ở đây cũng thống nhất với truyền thuyết về các đề tài ca ngợi Lê
Hoàn. Chính cung đền thờ Lê Hoàn, Dương Vân Nga và Lê Long Đĩnh, tòa thiêu hương
có bài vị thờ Phạm Cự Lượng, người có công cùng với Dương Vân Nga đưa Lê Hoàn
lên ngôi.
Đền thờ Công chúa Phất Kim được xây dựng từ thời nhà Tiền
Lê. Đền nằm gần đền thờ Lê Hoàn và chùa Nhất Trụ. Tương truyền vị trí này nằm
trên nền nhà của cung Vọng Nguyệt, nơi trước đây bà đã ở.
Chiếc giếng bà nhảy xuống tự vẫn đến nay vẫn còn trước của đền.
Đền thờ Phất Kim là một ngôi đền cổ suy tôn người phụ nữ thế kỷ X, hiền lành,
trung hậu và chịu nhiều sóng gió cuộc đời; giá trị tâm linh của ngôi đền còn thể
hiện ở ý nghĩa: dù thời thế có đổi thay, thăng trầm nhưng cội nguồn văn hóa cổ
là mãi mãi trường tồn.
Đền Vua Lý Thái Tổ là dự án được xây dựng từ nguồn vốn kỷ niệm
1000 năm Thăng Long Hà Nội. Sự xuất hiện ngôi đền này ở Hoa Lư khẳng định lại
nhận thức của người Việt về vai trò của Hoa Lư đối với Lý Thái Tổ và ngược lại.
Đây là ngôi đền đầu tiên thờ riêng Lý Thái Tổ, có phối thờ cùng Lý Thái Tông và
hoàng hậu Lê Thị Phất Ngân - những người con của kinh đô Hoa Lư.
Ngôi đền này không có kiến trúc theo kiểu nội công ngoại quốc
như đền Đinh Lê mà nó mang dáng dấp của một ngôi chùa. Dự án đang triển khai
thì phải đình lại do phát hiện các di tích khảo cổ trong lòng đất.
Các vị thần trấn giữ ba hướng cửa vào thành ngoài, thành trong
và thành nam được Vua Đinh Tiên Hoàng cho xây dựng đền thờ gồm trấn đông, trấn
tây và trấn nam.
Động Thiên Tôn thờ thần Thiên Tôn, là vị thiên thần trấn
đông hướng mặt trời mọc. Xưa nơi đây là tiền đồn để trình báo khi vào kinh đô
Hoa Lư từ phía Đông.
Trước lúc đem quân đi dẹp loạn 12 sứ quân, Vua đã sửa lễ vật
vào cầu đảo trong động để mong được thần giúp đỡ. Về sau nơi đây nhà vua cho
xây cất nhà Tiền Tế và Kính Thiên Đài là nơi tiếp đón các sứ thần nước ngoài
trước khi nhà vua cho vào bệ kiến.
Theo truyền thuyết, thần Cao Sơn là một vị thần núi ở Phụng
Hóa (Nho Quan - Ninh Bình) mà từ nhỏ Đinh Bộ Lĩnh đã được mẹ đưa vào sống cạnh
đền sơn thần trong động, vị thần sau này có công phù trợ quân Lê Tương Dực diệt
được Uy Mục nên cũng được dân làng Kim Liên rước về thờ ở trấn phía Nam kinh
thành, một trong Thăng Long tứ trấn.
Cao Sơn đại vương khi đi tuần từ vùng Nam Lĩnh đến vùng
Thiên Dưỡng, đã tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay bột gạo, lấy
tên mình đặt tên cho cây là Quang lang (dân địa phương vẫn gọi là cây quang
lang hay cây búng báng). Thần đã dạy bảo và giúp đỡ người dân làm ăn sinh sống
đồng thời bảo vệ khỏi các thế lực phá hoại vì vậy đã được Vua Đinh cho phép dân
lập đền thờ.
Đền Trần thờ thần Quý Minh, là vị thủy thần trấn ải Sơn Nam
nằm ở vùng sông núi Tràng An. Đền do vua Đinh Tiên Hoàng xây dựng cùng thời với
đền Hùng, sau này vua Trần Thái Tông về đây tu hành cải tạo bề thế hơn với các
cột đá, đổi tên thành đền Trần, là nơi thờ thần Quý Minh, vị thần trấn cửa ải
phía nam Hoa Lư từ thời Hùng Vương thứ 18. Đền còn có tên là đền Nội Lâm (cùng
với Vũ Lâm, Văn Lâm hợp thành Tam Lâm dưới triều Trần).
Kiến trúc đình làng
Ngoài các đền thờ 2 vua Đinh, Lê thuộc sở hữu cộng đồng thì
ngay trong kinh thành Hoa Lư, người dân cố đô vẫn lập những ngôi đình riêng của
mỗi làng để thờ 2 vị vua này, đó là các di tích thuộc sở hữu của 7 làng cổ thuộc
xã Trường Yên.
Đình Yên Thành nằm cạnh chùa Nhất Trụ, thuộc làng cổ Yên
Thành là nơi trung tâm nhất của cung điện Hoa Lư xưa. Đình làng Yên Thành thờ cả
hai vua Đinh - Lê làm thành hoàng. Làng cổ Yên Thành được giới hạn bởi 3 cổng
chốt: cửa bắc vào trung tâm di tích Hoa Lư, cửa bắc vào kinh đô Hoa Lư xưa tại
vị trí cầu Dền và cầu Đông nối với làng Yên Thượng.
Đây là một làng cổ có vai trò trung tâm kết nối không gian
giao thông và văn hóa với các làng lân cận của Hoa Lư tứ trấn. Làng nằm khá biệt
lập, ba mặt giáp sông Sào Khê ngăn cách với làng Yên Thượng, phía nam giáp với
các di tích trung tâm cố đô Hoa Lư, phía tây giáp với núi Đìa, núi Chợ.
Làng Yên Thành được chia thành 4 thôn: Đông, Đoài, Nam, Bắc.
Đây là làng duy nhất ở Trường Yên chia thôn theo các hướng cổ truyền Việt Nam.
Trung tâm xã Trường Yên thuộc làng này.
Đình Yên Trạch thờ Vua Đinh Tiên Hoàng. Đình nằm ở làng cổ
Yên Trạch, cách trung tâm quảng trường cố đô 2 km. Đình Yên Trạch nằm phía đông
bắc của xóm Đình. Phía nam giáp đất thổ cư của dân xóm Đình, ba phía còn lại
giáp với hồ, ruộng canh tác.
Đình toạ lạc trên khoảng đất rộng, cao ráo. Đình được xây dựng
quay hướng đông bắc, trông ra dãy núi Bên Bến, bên phải có núi Sách Sẻ cheo
leo, bên trái xa xa có núi Rùa, tạo thế núi chống đỡ với trời cao.
Phía trước có sông Phúc Hầu chảy từ sông Hoàng Long, qua núi
Đông Lâm, vòng qua bên phải của Đình, tạo thuỷ tụ về. Theo thuật phong thuỷ và
theo các cụ trong làng cho rằng có sơn tất có thuỷ tạo cảnh hữu tình nên đã cho
đào hồ trước cửa và bên trái của Đình. Bên phải của Đình là đường đi giáp với
sông Phúc Hầu.
Đình Yên Hạ thờ Vua Lê Đại Hành.
Các đình làng Yên Trung, Yên Thượng, Chi Phong, Lạc Hối đã bị
phá hủy trong chiến tranh, hiện đã có kế hoạch phục dựng.
Kiến trúc chùa cổ
Sau khi đã là kinh đô, Hoa Lư dần trở thành trung tâm Phật
giáo. Theo các thư tịch và dấu vết còn sót lại, vào thế kỷ 10, tại đây đã có
khá nhiều chùa tháp như chùa Bà Ngô, chùa Cổ Am, chùa Duyên Ninh, chùa Am Tiên,
chùa Tháp, chùa Bàn Long, chùa động Thiên Tôn, chùa Hoa Sơn (nhà Đinh); chùa
Kim Ngân, chùa Nhất Trụ, chùa Đẩu Long (nhà Tiền Lê).
Theo chính sử, Vua Đinh Tiên Hoàng là người đầu tiên đặt chức
tăng thống phật giáo trong lịch sử mà quốc sư đầu tiên của Việt Nam là Khuông
Việt. Điều độc đáo ở đây là có khá nhiều chùa được xây dựng trong các hang núi
đá vôi, dựa vào núi đá hoặc tận dụng hẳn núi đá làm chùa mà tiêu biểu là các động
chùa: Hoa Sơn, Thiên Tôn, Bích Động, Địch Lộng, Bái Đính, Linh Cốc…
Thạch kinh chùa Nhất Trụ
Chùa Nhất Trụ (hay chùa Một Cột) cùng với đình Yên Thành tọa
lạc ở gần đền Vua Lê Đại Hành, được Vua Lê Đại Hành xây dựng để mở mang phật
giáo. Hiện còn cột kinh Phật trước chùa vẫn giữ nguyên vẹn từ nghìn năm trước,
được coi là thạch kinh cổ nhất Việt Nam.
Chùa Bái Đính gồm có một khu chùa cổ và một khu chùa mới với
đền thờ đức Thánh Nguyễn, hang động sáng thờ Phật, hang động tối thờ Tiên và đền
thờ thần Cao Sơn. Quần thể chùa Bái Đính nằm ở vùng đất hội tụ đầy đủ yếu tố
nhân kiệt theo quan niệm dân gian Việt Nam, đó là đất sinh Vua, sinh Thánh,
sinh Thần.
Chùa Bái Đính được các báo giới tôn vinh là khu chùa lớn nhất
Đông Nam Á. Đây là một siêu chùa thuộc khu di tích cố đô Hoa Lư với nhiều kỷ lục
được xác lập. Chính vì vậy mà nơi đây sớm trở thành một điểm đến nổi tiếng.
Chùa Bà Ngô được xây từ thời nhà Đinh. Nằm bên phải bờ sông
Hoàng Long thuộc khu vực ngoại vi thành Hoa Lư xưa. Tấm bia đá dựng ở chùa,
niên đại 1877 có đoạn: "Chùa Bà Ngô trong ấp ta là một danh lam của đô cũ
Đại Việt trước. Vốn là một danh thắng nhưng do thế đại chuyển dời, phong quang
thay đổi, am ngọc quạnh quẽ dưới ánh dương tà, chùa báu điêu tàn trơ trọi trong
ánh trăng đêm".
Tương truyền là nơi hoàng hậu mẹ Ngô Nhật Khánh tu hành.
Trong chùa có bức đại tự thời Nguyễn ghi 3 chữ Bà Sa tự. Theo từ điển Hán Việt,
Sa có nghĩa là nhiều khổ não.
Chùa Bà Ngô ở thế kỷ thứ X chính là nơi tiến hành nghi thức
sám hối, rửa sạch mọi tội lỗi nghiệp chướng trần gian. Tại đây còn khai quật được
ngôi mộ cổ thời Hán – Đường.
Chùa Bàn Long cũng được hình thành từ thời Đinh. Khi chúa Trịnh
Sâm đã đến thăm, tay đề ba chữ lớn: "Bàn Long Tự" trên vách cửa động.
"Bàn Long" là bệ rồng - bệ đá rồng ngồi. Tấm bia ở vách núi khắc vào
thế ký 16 có ghi: "Từ thành cổ Hoa Lư men theo núi đá mà đi về phía nam đến
làng Khê Đầu, ở đó có chùa Bàn Long. Đây là danh thắng từ ngàn xưa. Trải các
triều Đinh, Lê, Lý, Trần chùa này càng thêm nổi tiếng".
Chùa Tháp là ngôi chùa cổ mà nay chỉ còn lại vết tích ở nền
sông Hoàng Long. Trong số tảng đá chân cột, có những viên hình vuông cạnh hơn 1
m và vòng tròn ở giữa có đường kính 0,68 m. Chùa tên là chùa Tháp vì có tháp
Báo Thiên thời Đinh-Lê.
Chùa Kim Ngân là một ngôi chùa cổ nằm ở thôn Chi Phong, thuộc
vòng thành trong ở phía tây, xưa là nơi cất giữ vàng bạc từ khi vua Lê Đại Hành
cày tịch điền ở ruộng Kim Ngân. Chùa Duyên Ninh xưa là nơi vui chơi của các
công chúa, nơi đây Lý Thái Tổ và công chúa Lê Thị Phất Ngân đã thề hẹn ở đó mà
sinh ra Lý Thái Tông.
Hoa Sơn động nằm ở Áng Ngũ, xã Ninh Hòa, ở độ cao gần 70
mét. Tương truyền động Hoa Sơn là nơi nuôi Ấu chúa thời vua Đinh. Tên trước của
động là chùa Bà Đẻ, sau vua Tự Đức đến thăm đã đặt lại tên động là Hoa Sơn.
Chùa động Am Tiên như một thế giới riêng biệt. Có một tấm
bia cổ, từ thời Lý, chữ đã mờ hết đọc không được. Nhưng tấm bia dựng thời vua Ðồng
Khánh, chữ viết còn rõ ràng, nói về việc tu sửa chùa và động. Đây là nơi vua
Đinh Tiên Hoàng nuôi hổ báo để trừng trị những người phạm tội nặng.
Đến thời Lý, nhà sư Nguyễn Minh Không đã ở trong hang tụng
kinh thuyết pháp, xây bệ thờ Phật ở trong hang, người đời sau mới mở ra cảnh
chùa chiền để khách thập phương hành hương đến đó.
Chùa Am thuộc thôn Yên Trung, nằm ở phía tây bắc núi Đìa;
chùa Đìa thuộc thôn Yên Thành, nằm ở phía đông nam núi Đìa, xã Trường Yên. Đây
là hai chùa cổ thời Đinh xây dựng theo kiểu động chùa, tựa lưng vào núi.
Hệ thống lăng, bia
Nhà bia Lý Thái Tổ là di tích được thành phố Hà Nội xây dựng
tại cố đô Hoa Lư. Sau khi dời đô về Thăng Long, nhà Lý vấn kế thừa các thành quả
có được từ kinh đô Hoa Lư trước đó.
Để tưởng niệm công lao đặt nền móng xây dựng độc lập tự chủ
của đất nước và nhớ đến Cố đô Hoa Lư, nhà Lý đã lấy tên một số công trình ở Hoa
Lư đặt cho nhiều khu vực ở Thăng Long mà chúng vẫn tồn tại đến tận nay như: Ô Cầu
Dền, phố Tràng Tiền, phố Cầu Đông, chùa Một Cột, ngã ba Bồ Đề, cống Trẹm, tháp
Báo Thiên...
Lăng vua Đinh và lăng vua Lê đều xây từ năm 1840 và được
trùng tu vào năm 1885 nên khá khiêm nhường và cổ kính. Lăng vua Đinh xây bằng
đá, được đặt trên đỉnh núi. Trước lăng một tấm bia đá có đề chữ mà qua đó, người
đời sau biết được lăng được xây dựng từ năm Minh Mạng thứ 21 và đến năm Hàm
Nghi thứ nhất có trùng tu lại.
Lăng Vua Lê Đại Hành cũng xây bằng đá nhưng nằm dưới chân Mã
Yên Sơn đi về hướng nam. Trước lăng cũng có bia dựng từ đời Minh Mạng. Lăng mộ
Đinh Bộ Lĩnh được đặt ở chính giữa núi, nơi võng xuống thấp mà dân gian hình
dung là cái yên ngựa. Tương truyền, cách tôn thờ như vậy để đề cao tinh thần
thượng võ của vua Đinh dù người đã mất.
Bia Cầu Dền là một tấm bia cổ, minh chứng xác thực cho sự xuất
hiện chiếc cầu đá bắc qua sông Sào Khê và cũng là một cửa ngõ của kinh thành
Hoa Lư từ thời nhà Đinh.
Ở Hà Nội sau này, Ô Cầu Dền (Triền Riều) cũng là một cửa ngõ
của kinh thành Thăng Long, xuất hiện trong sử từ thời Lý, thế kỷ XI- XII. Bia Cửa
Đông (còn gọi là bia hang Thầy Bói) được tạc dưới chân núi Đầm, gọi cửa thành
này là Đông Môn, là nơi bá quan văn võ qua lại mỗi khi vào triều bệ kiến.
Nay còn địa danh xóm Đông Môn thuộc xã Trường Yên, và núi
Thanh Lâu nằm cạnh đường còn gọi là Núi Cổng, nhưng vết tích của cửa thành thì
hoàn toàn không còn do con đường qua đây luôn được cải tạo và mở rộng.
Cầu Đông là cây cầu bắc qua sông Sào Khê, nằm giữa vị trí
hang thầy bói và chợ Cầu Đông mà dân gian có câu: "Bà già đi chợ cầu Đông,
xem một quẻ bói lấy chồng lợi chăng? Thầy bói gieo quẻ nói rằng, lợi thì có lợi
nhưng răng không còn".
Hệ thống phủ, miếu
Phủ đột (đền Trình) ở Tràng An
Nằm rải rác trong khu dân cư cố đô Hoa Lư có rất nhiều các
công trình lăng phủ cổ kính thờ các quan thời Đinh - Lê và các thái tử, công
chúa ở 2 triều đại này. Phủ là nơi làm việc của quan lại thời Đinh Lê, khi kinh
đô Hoa Lư trở thành cố đô thì phủ trở thành nơi thờ phụng.
Phủ Vườn Thiên nằm cách quảng trường trung tâm khu di tích cố
đô Hoa Lư 600m. Phủ có kiến trúc y hệt quy mô của một ngôi đền với 3 tòa chầu
vào sân giữa. Phủ Vườn Thiên thờ thái tử Lê Long Thâu, con cả vua Lê Đại Hành,
là người cai quản Tháp Tư thiên. Tháp có nhiệm vụ quan sát thiên tượng, dự đoán
thời tiết hàng ngày để tâu lên vua. Các nhà nghiên cứu cho rằng đây chính là
tháp đài mà năm 991 Tống Cảo - sứ nhà Tống đã tâu vua Tống rằng:
"...ở kinh đô Hoa Lư có một cái tháp nhiều tầng, kết gỗ
dựng lên, hình dáng hơi thô lậu, Lê Hoàn có mời bọn hạ thần lên đó xem. Lê Hoàn
hỏi: bên thượng quốc có cái tháp này không? Ấy là tháp đo khí hậu. Khí hậu nước
này không rét, giữa tháng Chạp vẫn mặc áo đơn, dùng quạt".
Phủ Đông Thành thuộc thôn Đông Thành thờ Đông Thành Vương, tức
hoàng tử Lê Long Tích con thứ hai của Vua Lê Đại Hành; Tại đây còn phối thờ
Khai Quốc Vương cai quản Hoa Lư sau khi nhà Lý dời đô về Thăng Long;
Phủ Đông Vương thuộc thôn Vàng Ngọc có tượng thờ Đông Thành
Vương, tức hoàng tử Lê Long Tích con thứ hai của Vua Lê Đại Hành;
Phủ Phù Dung hay phủ Bà Chúa thuộc thôn Yên Trạch, gần chân
núi Cột Cờ thờ công chúa Đinh Phù Dung, con Vua Đinh Tiên Hoàng và phò mã
Trương Ma Sơn.
Phủ Bến Đò nằm ở bên sông Hoàng Long, thờ Đông Thái Đại
Vương là vị quan coi cửa Bắc kinh đô Hoa Lư;
Phủ Cửa Đền thờ Ngũ Đạo Đại Vương, vị tướng phụ trách 5 đạo
quân;
Phủ Vật thờ Cẩm Trà Đại Vương, tướng phụ trách tuyển quân,
vào ngày 6/1 âm lịch có hội vật tưởng nhớ ông;
Phủ Chợ thờ Ngũ Lầu Đại Vương, quan phụ trách ca hát cùng phối
thờ bà tổ hát Chèo Phạm Thị Trân. Vào 1/1 âm lịch tại đây có hát ca trù tưởng
nhớ ông; vào ngày 12/8 âm lịch có hát Chèo tưởng nhớ bà tổ hát Chèo;
Phủ Đột (hay đền Trình) ở Tràng An là nơi thờ 2 vị quan nhà
Đinh đã canh gách tại khu vực này; Đền Trần ở Tràng An do vua Trần Thái Tông
xây dựng năm 1258, là nơi thờ thần Quý Minh, vị thần trấn cửa ải phía nam Hoa
Lư tứ trấn;
Phủ Khống ở Tràng An là nơi thờ 7 vị quan trung thần triều
Đinh, gắn với các truyền thuyết khi vua Đinh Tiên Hoàng qua đời. Tại đây còn
cây thị nghìn năm tuổi mà quả có hai loại: 1 tròn và 1 dẹt.
Phủ Thành Hoàng (còn gọi là đền Hành khiển thuộc thôn Áng
Ngũ) thờ Nguyễn Bặc;
Phủ Làng Thong ở thôn Thong Bái thờ một vị tướng được tôn gọi
là Vạn Dần Đại Vương phụ trách thủy quân thường xuyên luyện tập ở sông Sào Khê,
đoạn gần hang Luồn suốt hai triều Đinh và Tiền Lê.
Phủ Thong Khống thờ Đinh triều tả, hữu thái giám triều Đinh.
Phủ Áng Lẫm thờ Đinh triều tả, hữu thái giám triều Đinh.
Phủ Liên Hoa thờ Đinh triều tả, hữu thái giám triều Đinh.
Phủ Áng Mương thờ Đinh triều tả, hữu thái giám triều Đinh.
Phủ Ngòi Gai thờ Đinh triều tả, hữu thái giám triều Đinh.
Bảo vật quốc gia
Cố đô Hoa Lư không chỉ là khu di tích quốc gia đặc biệt quan
trọng mà còn lưu giữ 4 bảo vật quốc gia đã được thủ tướng chính phủ công nhận
là Cột kinh Phật tại chùa Nhất trụ; Long sàng trước Nghi môn ngoại và trước Bái
đường Đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng; Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng và Bộ
Phủ Việt đền thờ Vua Lê Đại Hành.
Long sàng trước Nghi môn ngoại và trước Bái đường Đền thờ
Vua Đinh Tiên Hoàng: Cố đô Hoa Lư, Ninh Bình là nơi lưu giữ hai chiếc sập đá vô
cùng độc đáo, là một bảo vật vô tiền khoáng hậu trong mỹ thuật Việt Nam. Hai
chiếc sập đá cũng có thể gọi là long sàng này là một trong những hiện vật quan
trọng nhất của ngôi đền vua Đinh. Hai chiếc sập đá này xác lập những kỷ lục lần
đầu tiên và duy nhất trong mỹ thuật Việt.
Cột kinh Phật tại chùa Nhất trụ được dựng từ thế kỷ thứ X đến
nay vẫn còn tại vị trí cũ. Với những nét độc đáo, Cột kinh Phật đã minh chứng
cho thời kỳ phát triển rực rỡ đạo Phật ở Việt Nam.
Đây là thời kỳ bắt đầu giành độc lập, thống nhất thể hiện sự
khéo léo trong nghệ thuật trang trí, chạm khắc trên đá, nghệ thuật chế tác của
ông cha ta thời bấy giờ. Với kiến trúc độc đáo trên, trải qua hàng ngàn năm
nhưng các bộ phận của cột vẫn không tách rời và giữ được vẻ nguyên sơ.
Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng gồm 2 Phủ Việt, mỗi
Phủ Việt nặng 45 kg, dài 300 cm, dày 0,7 cm. Phủ Việt được chế tạo dựa trên
hình ảnh của lưỡi rìu chiến kết hợp với đinh ba, là hai trong số các binh khí
trong bộ đồ tế khí tại các di tích, đặc biệt được chú trọng tại các đền thờ các
vị anh hùng dân tộc, trở thành vật thiêng trong không gian thờ cúng của người
Việt.
Phủ Việt tại đền thờ vua Đinh Tiên Hoàng được chế tạo cầu kỳ,
tinh xảo và kỹ lưỡng với sự cách điệu hóa cao, khác xa với Phủ Việt là đồ tế
khí thông thường.
Phần giữa thân của Phủ Việt được trổ thủng hình ảnh rồng mẹ
và rồng con xoắn xuýt lấy nhau, tạo nên một ổ rồng, không quá khuôn cứng trong
một hình mẫu có sẵn như các ổ rồng ở thời Minh - Thanh, Trung Hoa. Tạo hình của
cán phủ việt có tiết diện hình bát giác, hoàn toàn khác biệt với những phủ việt
thông thường, đều có thân hình tròn.
Phủ Việt tại đền thờ Vua Đinh Tiên Hoàng là một tác phẩm hàm
chứa nhiều giá trị biểu tượng, giá trị văn hóa nghệ thuật và tín ngưỡng tâm
linh sâu sắc. Đôi Phủ Việt thờ Vua Đinh Tiên Hoàng là sự sáng tạo đem đến giá
trị độc đáo về loại hình khiến Phủ Việt ở đây không hề giống với bất cứ hiện vật
cùng tên gọi ở bất cứ nơi nào. Kỹ thuật điêu khắc và sơn thếp đạt tới đỉnh cao
khiến trải qua hơn 400 năm, sắc màu của Phủ Việt vẫn còn giữ được như xưa.
Bộ Phủ Việt đền thờ Vua Lê Đại Hành gồm 2 Phủ Việt, mỗi Phủ
Việt nặng 42 kg, dài 317 cm, dày 06 cm. Phủ Việt có cấu tạo gồm ba phần: thân,
đế và cán. Thân Phủ Việt là bộ phận trung tâm và quan trọng nhất, được chế tạo
công phu.
Thông qua hoa văn trang trí, phong cách nghệ thuật, ngôn ngữ
thể hiện trên Phủ Việt có thể đoán định niên đại của Phủ Việt trùng khớp với
niên đại của văn bia có dòng lạc khoản ghi rõ năm tạo tác 1612.
Bộ Phủ Việt thờ tại đền Vua Lê Đại Hành là cổ vật độc bản.
Hiện vật có hình thức độc đáo, được sáng tạo để tách riêng Phủ Việt ra khỏi bộ
chấp kích để làm đồ thờ thông thường, mà trở thành một biểu tượng cho quyền uy
của Vua Lê Đại Hành. Đề tài trang trí mỹ thuật mang ngôn ngữ nghệ thuật thời Lê
Trung hưng.
Chất lượng sơn son thếp vàng sang trọng, họa tiết hoa văn
mang đậm yếu tố cung đình; đồng thời cũng phản ánh sự song hành và hòa quyện ba
tôn giáo Đạo - Phật - Nho trong tín ngưỡng Việt Nam.
Dấu tích kinh thành
Cung điện dưới lòng đất
Tại khu vực đền vua Lê, Các nhà khảo cổ đã khai quật một phần
nền cung điện thế kỷ X. Chứng tích nền cung điện nằm sâu dưới mặt đất khoảng 3m
đã được khoanh vùng phục vụ khách tham quan. Tại đây còn trưng bày các phế tích
khảo cổ thu được tại Hoa Lư phân theo từng giai đoạn lịch sử: Đinh-Lê, Lý và Trần.
Sau chương trình điền dã của dự án hợp tác văn hoá Việt Nam - Phần Lan tiến
hành khảo sát; vết tích nền móng cung điện thế kỷ X đã được phát hiện bởi đợt
khai quật của Viện Khảo cổ học.
Trong số hàng trăm hiện vật cổ tìm thấy tại đây, có những
viên gạch lát nền có trang trí hình hoa sen tinh xảo, đặc biệt loại lớn có kích
thước 0,78m x 0,48m. Có những viên gạch còn hằn dòng chữ "Ðại Việt quốc
quân thành chuyên" (gạch chuyên xây dựng thành nước Ðại Việt). Có những
ngói ống có phủ riềm, nằm sâu dưới đất ruộng, khai quật lên, còn lành nguyên và
cả những chì lưới, vịt... làm bằng đất nung.
Kết quả đợt khai quật tại khu vực đền Lê Hoàn năm 1997 đã hé
mở phần nào diện mạo của kinh đô Hoa Lư: thành quách kiên cố, nhiều kiến trúc lớn
và trang trí cầu kỳ mang đậm phong cách nghệ thuật riêng thời Đinh - Lê đơn giản,
khỏe khoắn.
Thực hiện quyết định số 3826/QĐ-BVHTTDL ngày 23 tháng 10 năm
2009, Bảo tàng Lịch sử Việt Nam phối hợp với Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch
Ninh Bình tiến hành khai quật khảo cổ học khu vực trung tâm Di tích Cố đô Hoa
Lư. Dự án nghiên cứu khảo cổ học khu di tích Cố đô Hoa Lư năm 2009 - 2010 là bước
khởi đầu nhằm định hình cho quá trình nghiên cứu lâu dài, phục vụ hiệu quả cho
công tác bảo tồn, tôn tạo và quy hoạch tổng thể khu di tích lịch sử, văn hoá Cố
đô Hoa Lư trong những năm tiếp theo.
Trong đợt khai quật lần này, các nhà khảo cổ tập trung thám
sát, khai quật tại khu vực đồng Cây Khế phía Bắc đền vua Lê. Kết quả bước đầu
đã làm phát lộ dấu tích của tường gạch xây bằng loại gạch Đại Việt Quốc Quân
Thành Chuyên, loại gạch chuyên để xây thành, cùng nhiều loại hình vật liệu xây
dựng và trang trí kiến trúc thời Đinh Lê.
Bên cạnh việc xác định được các vết tích kiến trúc và kỹ thuật
xây dựng đương thời, công tác khảo cổ còn đưa lên khỏi lòng đất nhiều di vật
quý giá góp phần nghiên cứu một cách toàn diện về lịch sử, văn hoá…của vùng đất
Cố đô Hoa Lư.
Thành thiên tạo
Cố đô Hoa Lư là một kiến trúc hài hòa giữa nhân tạo và thiên
tạo. Các triều vua đã sử dụng triệt để sự lợi hại của những dãy núi và hệ thống
sông hào làm thành quách để xây dựng cung điện. Qua thời gian, thành nhân tạo
chỉ còn là những dấu tích, thành thiên tạo là những vách núi vẫn còn tồn tại
mãi.
Hệ thống sông núi thành Nam của cố đô Hoa Lư
Núi Mã Yên: Tên núi Mã Yên vì trông xa núi có hình yên ngựa.
Tương truyền khi dựng kinh đô Đinh Bộ Lĩnh đã lấy núi này làm án. Đứng ở trên đỉnh
núi có thể nhìn rõ toàn cảnh Cố đô với dãy núi Rù bao quanh đền hai vua, rặng
Phi Vân, núi Kiến, núi Cột Cờ và khu dân cư.
Người xưa đã án táng Đinh Tiên Hoàng trên đỉnh núi với quan
niệm đề cao tinh thần thượng võ của người, dù mất vẫn còn trên yên ngựa, vì vậy
để lên thăm lăng mộ vua Đinh Tiên Hoàng phải bước lên 150 bậc đá của núi Mã
Yên.
Núi Cột Cờ: Phía đông bắc thành ngoại có núi Cột Cờ là nơi
treo quốc kỳ Đại Cồ Việt, tại đây đã khai quật được dấu tích tường thành.
Ghềnh Tháp: Phía đông nam có ghềnh tháp là nơi Đinh Tiên
Hoàng duyệt thủy quân. Khu vực này còn có hang Tiền, hang muối - nơi cất giữ
tài sản quốc gia, động Am Tiên nhốt hổ, báo để xử người có tội
Sông Hoàng Long: Là con sông gắn với những truyền thuyết về
Đinh Bộ Lĩnh thuở nhỏ. Sông nằm ở phía bắc kinh đô Hoa Lư, một nhánh của sông
Hoàng Long, nằm uốn lượn trong khu di tích mà người dân địa phương gọi là sông
Sào Khê.
Tương truyền, bên bến sông này là nơi Lý Công Uẩn hạ chiếu dời
đô để xuống thuyền tiến về Thăng Long. Sông Sào Khê hiện nay được nạo vét và là
một cửa ngõ đường thủy dẫn vào các khu di tích, thắng cảnh Hoa Lư.
Kinh đô Hoa Lư được bao bọc bởi nhiều ngọn núi, các triều
vua đã dựa theo địa hình tự nhiên cho đắp 10 đoạn tường thành nối các núi đá, dựng
nên thành Hoa Lư với diện tích hơn 300 ha. Toàn bộ công trình chủ yếu được các
vua Đinh, Lê dựa vào thiên nhiên hiểm trở làm chỗ dựa, mang nặng tính chất quân
sự, không câu nệ vào hình dáng, kích thước.
Phía Nam thành Hoa Lư là thành Tràng An (còn được gọi là
thành Nam) là khu vực phòng thủ hậu cứ của kinh đô. Thành Hoa Lư có hai vòng:
thành Đông và thành Tây, có đường thông với nhau. Thành Đông có vai trò quan trọng
hơn. Các nhà khảo cổ đào một số đoạn tường thành phát hiện ở những khu vực này
có móng thành bằng cành cây với nhiều cọc đóng xuống sâu.
Phía trong của tường thành xây bằng gạch, dày đến 0,45 m,
cao từ 8-10 mét. Chân tường kè đá tảng, gạch bó và đóng cọc gỗ. Loại gạch phổ
biến có kích thước 30 x 16 x 4 cm, trên gạch thường có in các dòng chữ "Đại
Việt quốc quân thành chuyên" và "Giang Tây quân". Phía ngoài tường
gạch là tường đất đắp rất dày.
Thành Đông hay thành ngoài rộng khoảng 140 ha, thuộc địa phận
hai thôn Yên Thượng và Yên Thành xã Trường Yên, có 5 đoạn tường thành nối các
dãy núi tạo nên vòng thành khép kín. Ðây là cung điện chính mà khu vực đền
Ðinh, đền Lê nằm ở trung tâm.
Thành Tây hay thành trong có diện tích tương đương thành
ngoài, thuộc thôn Chi Phong cũng có 5 đoạn tường thành nối liền các dãy núi.
Giữa hai tòa thành này, việc qua lại thực hiện được bằng một
lối đi, một ngách núi, gọi là Quèn Vòng, tuy thấy có vẻ hiểm trở nhưng thật ra
rất là thuận tiện. Cả hai thành đều lợi dụng được nhánh sông Sào Khê chảy dọc
thành, vừa là hào nước tự nhiên, vừa là đường thủy, phục vụ việc di chuyển ra
vào thành. Trong hai tòa thành có bố trí các khu triều đình, quan lại và quân
lính. Hiện nay thành thiên tạo vẫn còn, thành nhân tạo và cung điện chỉ còn là
những dấu tích đang được khai quật.
Thành Nam nằm ở phía Nam kinh thành Hoa Lư, có núi cao bao bọc
xung quanh, bảo vệ mặt sau thành. Địa thế thành Nam rất vững chắc, đoạn sông
Trường chảy qua thành Nam có một hệ thống khe ngòi chằng chịt từ các ngách núi
đổ ra. Thành Nam có nhiều giá trị về mặt quân sự, là nơi dự trữ, thủ hiểm từ
đây có thể nhanh chóng rút ra ngoài bằng đường thủy. Đây là hệ thống hang động
Tràng An hiện tại.
Khu thành hào, hang động Tràng An xưa được sử dụng như là hệ
thống phòng thủ mặt sau của kinh thành Hoa Lư. Tại đây cũng khai quật được các
dấu tích của người tiền sử. Vào thời Trần, tại hang bói ở đây là cứ địa chống
quân Nguyên Mông.
Đây là tuyến điểm di tích lịch sử thu hút nhiều nhà khảo cổ,
nghiên cứu lịch sử đến làm việc. Tại đây đã tìm được nhiều cổ vật từ thời Đinh,
Tiền Lê và thời Trần. Tràng An là một khu danh thắng nổi tiếng đã được UNESCO
công nhận là di sản thiên nhiên thế giới với giá trị nổi bật về cảnh quan thiên
nhiên, đa dạng sinh thái và kiến tạo địa chất, là địa danh được Việt Nam đầu tư
để trở thành một khu du lịch tầm cỡ quốc tế. Tràng An gắn liền với những giá trị
lịch sử, văn hóa của vùng đất cố đô Hoa Lư.
Người Việt muốn khẳng định kinh đô Hoa Lư cũng bề thế như
kinh đô Tràng An của phương Bắc qua câu đối:
"Cồ Việt quốc đương Tống Khai Bảo"
"Hoa Lư đô thị Hán Tràng An".
Năm 1010, Vua Lý Thái Tổ sửa Hoa Lư thành phủ Tràng An, Đại
La thành Thăng Long. Khu vực Tràng An hiện còn các đền, phủ thờ các vị quan
trung thần thời Đinh và thần Quý Minh trấn thành Nam.
Việc Đinh Tiên Hoàng chọn Hoa Lư mà không chọn Cổ Loa của
nhà Ngô hay Đại La thời Bắc thuộc được Lê Văn Siêu xem là quyết định khôn
ngoan. Với hoàn cảnh đương thời, sau nhiều năm loạn lạc, Hoa Lư là địa điểm chiến
lược, khống chế được cả khu vực sơn cước từ Thanh Hóa đổ ra, sông Đà đổ xuống,
thêm địa thế vừa hùng vừa hiểm có thể cầm cự với Trung Hoa, nếu có cuộc xâm
lăng của phía này tới.
Nhà địa chất, đồng thời là nguyên Chủ tịch nước Cộng hòa xã
hội chủ nghĩa Việt Nam Trần Đức Lương cũng cho rằng: tính hiểm yếu của Hoa Lư
không chỉ nhờ phần thành lũy, nền điện mà chính bởi hệ thống các thung lũng núi
sâu hơn bên trong có thể liên thông với nhau bởi các khe ngách mà ngày nay do
nước biển dâng cao đã biến thành những lạch nước ngầm.
Đô thị cổ Hoa Lư
Hoa Lư là đô thị đầu tiên trong lịch sử Việt Nam. Năm 970, đồng
tiền Việt Nam đầu tiên đã được Vua Đinh Tiên Hoàng cho phát hành, đánh dấu sự
ra đời của nền kinh tế, tài chính của chế độ phong kiến trung ương tập quyền. Đại
Việt Sử ký toàn thư cho biết năm Thái Bình thứ 7 (976) tại đây thuyền buôn nước
ngoài tới dâng sản vật, kết mối giao thương với Đại Cồ Việt.
Khu di tích Hoa Lư hiện tại có nhiều địa danh gắn liền với lịch
sử hình thành đô thị Hoa Lư cũng như Thăng Long sau này là phố chợ, núi chợ, tường
Dền, thành Dền, cầu Dền, cầu Đông, tường Đông, cửa Đông và phủ Chợ.
Phong cảnh phố Cầu Đông, núi Chợ ở Hoa Lư
Sau khi nhà Lý dời đô về Thăng Long, Hoa Lư vẫn mang dáng dấp
của một đô thị cổ kính được quan tâm, tìm hiểu. Những ngôi nhà cổ ở đây mang
nét đặc trưng của châu thổ Bắc Bộ, được hình thành từ những tục quán sinh hoạt
văn hóa lâu đời. Các nhà nghiên cứu còn so sánh Hoa Lư với đô thị Tràng An, đô
thị cổ nhất của Trung Hoa qua vế đối "Hoa Lư đô thị Hán Tràng An". Với
núi cao, hào sâu, Đô thị Hoa Lư vừa là quân thành lợi hại, hiểm hóc vừa hùng
tráng, hữu tình của một thắng cảnh.
Đàn Kính Thiên
Đàn Kính Thiên Tràng An là công trình kiến trúc văn hóa được
phục dựng trong quần thể di sản thế giới Tràng An để bảo tồn và phát huy giá trị
lịch sử của kinh đô Hoa Lư xưa. Đàn Kính Thiên còn được gọi là Đàn Tế Trời vì
là nơi thờ Ngọc Hoàng Thượng đế cùng các vị thần trên thiên đình là Nam Tào, Bắc
Đẩu, Phạm Thiên, Đế Thích và là nơi xưa kia các Hoàng đế đóng đô ở Hoa Lư tổ chức
các nghi lễ tế cáo trời đất, cầu quốc thái dân an.
Khu di tích Đàn Kính Thiên hiện nay nằm ở phía tây cố đô Hoa
Lư, gần chùa Bái Đính, khu du lịch thung Ui và cách thành phố Ninh Bình 20 km.
Bảo tồn và phát huy giá trị di sản
Phục dựng, tu bổ di tích
Thực hiện quyết định số 82/2003/QĐ-TTg của thủ tướng chính
phủ Việt Nam, tỉnh Ninh Bình đã và đang tập trung các dự án tu tạo cố đô Hoa
Lư. Đó là việc hoàn thành cổng Đông từ ngã 3 cầu Huyện vào cố đô với tường
thành ốp đá, cao 2 tầng mái cong tạo ấn tượng cổ kính. Khu vực trung tâm cố đô
đã xây dựng 3 cửa Bắc-Đông-Nam.
Các dự án 1000 năm Thăng Long như: Xây dựng quảng trường và
tượng đài Đinh Tiên Hoàng Đế; dự án xây dựng quảng trường - sân lễ hội phía trước
đền thờ vua Đinh, vua Lê; đầu tư tu bổ, nhiều dự án tôn tạo di tích Cố đô Hoa
Lư như đền thờ Công chúa Phất Kim, phủ Vườn Thiên, chùa Nhất Trụ đã hoàn thành.
Các hạng mục đang thực hiện như chùa Kim Ngân, động Am Tiên,
đền Bim, xây dựng hệ thống giao thông, tường bao, hào nước quanh vùng bảo vệ đặc
biệt và đền thờ Vua Lý Thái Tổ. Các di tích danh thắng Tràng An, chùa Bái Đính,
tượng đài vua Lê Đại Hành, thái hậu Dương Vân Nga.... đều được triển khai xây dựng.
Tỉnh Ninh Bình cũng phối hợp với Viện khảo cổ học Việt Nam
khai quật di tích khảo cổ học đã phát lộ khu vực tường thành của cố đô xưa với
nhiều hiện vật có giá trị lịch sử hàng nghìn năm tuổi như gạch ngói, đồ gốm, vật
dụng của thời đại Đinh – Lê tạo điều kiện tiền để để phục dựng cung điện Hoa
Lư. Khu vực cổng thành đã xây dựng cây cầu mới ốp đá, nạo vét sông Sào Khê dài
hơn 3 km là nơi mô phòng hành trình dời đô về Thăng Long.
Quyết định số 628/QĐ-TTG ngày 13/4/2016 của Thủ tướng Chính
phủ Việt Nam đã phê duyệt chủ trương đầu tư Dự án Bảo quản, tu bổ, tôn tạo và mở
rộng phạm vi một số di tích có liên quan đến Nhà nước Đại Cồ Việt nhằm phát huy
giá trị lịch sử - văn hóa Cố đô Hoa Lư.
Mục tiêu đầu tư là tôn tạo, nâng cấp một số di tích thuộc
Khu di tích quốc gia đặc biệt Cố đô Hoa Lư hướng đến kỷ niệm 1050 năm thành lập
nhà nước Đại Cồ Việt. Cụ thể, tu bổ, tôn tạo 6 di tích thuộc Khu di tích quốc
gia đặc biệt Cố đô Hoa Lư gồm: Khu lăng mộ vua Đinh Tiên Hoàng; khu lăng mộ vua
Lê Đại Hành; Bia Cửa Đông; đình Yên Thành; đình Yên Trạch và Phủ Đông Vương.
Đồng thời, tu bổ tôn tạo 6 di tích cấp quốc gia gồm: Khu tưởng
niệm và lăng mộ Thái tế Định Quốc Công Nguyễn Bặc, đình Mỹ Hạ, đình Ngô Khê Hạ,
đền Thung Lau, đền Tam Thánh - chùa Yên Lữ, đền thờ Tướng quân Đinh Điền và
chùa Tháp; tu bổ, tôn tạo, chống xuống cấp Đình Trai; xây dựng Khu nhà làm việc
của Trung tâm Bảo tồn di tích Cố đô Hoa Lư. Tổng mức đầu tư dự kiến 143.907 triệu
đồng.
Năm 2018, Ninh Bình đã khánh thành công trình kiến trúc Đàn
Kính Thiên Tràng An và phục dựng Lễ tế Thiên thời Đinh Tiên Hoàng Đế. Đàn Kính
Thiên Tràng An nằm trong khu vực hành cung Hoa Lư xưa, là nơi vua Đinh lập đàn
tế Trời khi đăng quang Hoàng đế.
Di sản văn hóa thế giới
Cố đô Hoa Lư hiện tại là một bộ phận của quần thể di sản thế
giới Tràng An, là di sản thế giới hỗn hợp đầu tiên ở Việt Nam khi đáp ứng cả
hai yếu tố nổi bật toàn cầu về văn hóa và thiên nhiên.
Trước đó, Cố đô Hoa Lư là một trong những đại diện đầu tiên
của Việt Nam được chọn để ứng cử di sản văn hóa thế giới. Năm 1991, 4 di sản được
lập hồ sơ đề nghị là Cố đô Hoa Lư, Vườn quốc gia Cúc Phương, Vịnh Hạ Long, và
Chùa Hương.
Trong lần ứng cử này cả bốn đại diện Việt Nam đều không được
UNESCO công nhận. Cùng với việc phát hiện và khai quật hệ thống hang động
Tràng An, khu di tích này tiếp tục được thủ tướng chính phủ Việt Nam ký quyết định
bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị lịch sử để xứng tầm là di sản thế giới trong
tương lai.
Ngày 17/10/2008, Bộ Văn hoá, Thể thao và Du lịch phối hợp với
tỉnh Ninh Bình, Hội Di sản Văn hoá Việt Nam đã tổ chức hội thảo khoa học về
"Giá trị di sản văn hoá Cố đô Hoa Lư và khu du lịch Tràng An" nhằm tiến
tới đề nghị Unesco công nhận cố đô Hoa Lư là di sản văn hóa thế giới và khu
sinh thái Tràng An là di sản thiên nhiên thế giới.
Theo những ý kiến tại hội thảo này, trong tương lai cố đô
Hoa Lư có thể trở thành di sản văn hóa thế giới hoặc di sản thiên nhiên thế giới
hoặc đạt cả hai tiêu chí của di sản văn hóa - thiên nhiên thế giới để trở thành
một di sản hỗn hợp.
Ngày 23/6/2014, UNESCO đã vinh danh quần thể danh thắng
Tràng An là di sản thế giới hỗn hợp trong đó có cố đô Hoa Lư, các di tích chùa
Bái Đính, hang động Tràng An và Tam Cốc - Bích Động.
Lễ hội cố đô Hoa Lư
Lễ tế cổ truyền tại đền Vua Đinh Tiên Hoàng
Rồng vàng trong lễ hội Cờ Lau
Lễ hội cố đô Hoa Lư gồm nhiều lễ hội truyền thống được mở để
tôn vinh các anh hùng dân tộc đã xây dựng kinh đô Hoa Lư, lập ra nhà nước Đại Cồ
Việt thế kỷ 10 mà tiêu biểu là hai vị vua Đinh Tiên Hoàng và Lê Đại Hành. Trong
các Lễ hội cố đô Hoa Lư thì lễ hội Hoa Lư là lễ hội tiêu biểu nhất, đã được xếp
hạng là di sản văn hóa cấp quốc gia và đang được đề nghị nâng tầm tổ chức lễ hội
theo nghi thức cấp nhà nước.
Lễ hội Hoa Lư diễn ra tại quảng trường trung tâm khu di tích
cố đô Hoa Lư và các di tích xung quanh nhưng phạm vi ảnh hưởng lớn không chỉ
trong tỉnh Ninh Bình mà còn lan tỏa tới hệ thống các di tích thời Đinh- Tiền Lê
khác ở Việt Nam. Đây là một lễ hội cổ truyền hướng về cội nguồn dựng nước và giữ
nước của dân tộc Việt Nam.
Lễ hội có lịch sử từ khi kinh đô Hoa Lư trở thành cố đô. Lễ
hội còn có tên là lễ hội cờ lau vì có màn diễn tái hiện cảnh Đinh Bộ Lĩnh với
trò chơi "Cờ lau tập trận" hay lễ hội Trường Yên vì không gian diễn
xướng của lễ hội xưa diễn ra rộng khắp phủ Trường Yên, tức Ninh Bình ngày nay.
"Ai là con cháu rồng tiên
Tháng Ba mở hội Trường Yên thì về".
Các lễ hội khác thuộc Quần thể di tích cố đô Hoa Lư gồm:
Lễ hội đền Trần thuộc khu du lịch sinh thái Tràng An suy tôn
thần Quý Minh trấn Nam Hoa Lư tứ trấn.
Lễ hội đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở quê hương xã Gia Phương.
Lễ hội động Hoa Lư suy tôn Đinh Bộ Lĩnh và suy tôn thần Khổng
Lồ Minh Không trấn Bắc Hoa Lư tứ trấn.
Lễ hội chùa Nhất Trụ.
Lễ hội chùa Bái Đính suy tôn Đức Thánh Nguyễn và thần Cao
Sơn trấn Tây Hoa Lư tứ trấn.
Lễ hội chùa Kim Ngân.
Lễ hội chùa Duyên Ninh.
Lễ hội động Thiên Tôn suy tôn thần Thiên Tôn trấn Đông Hoa
Lư tứ trấn.
Hành trình thăm viếng của du khách
Du khách thăm các núi non, hang động của cố đô Hoa Lư
Cố đô Hoa Lư là một điểm du lịch được quản lý bởi Ban quản
lý quần thể di sản thế giới Tràng An mà trực tiếp điều hành là Trung tâm bảo tồn
di tích cố đô Hoa Lư. Bến xe của khu di tích nằm cách thành phố Ninh Bình 11
km. Hành trình tham quan thông thường của du khách gồm 3 chặng như sau:
Khu trung tâm di tích: từ bến xe trung tâm khu di tích gần
quảng trường trung tâm lễ hội, du khách thăm các di tích theo trình tự: Cửa
Đông - Đền Vua Đinh Tiên Hoàng - Đền Vua Lê Đại Hành - Nhà bia Vua Lý Thái Tổ -
Đình Yên Thành và chùa Nhất Trụ - đền thờ công chúa Phất Kim - Phủ Vườn Thiên -
Lăng vua Đinh, lăng vua Lê.
Khu núi chùa Bái Đính: nằm cách khu trung tâm trên 5 km trên
khuôn viên rộng lớn với hai khu chùa cổ và khu chùa mới. Các di tích chùa cổ gồm:
đền thờ thánh Nguyễn, đền thờ thần Cao Sơn, động Sáng, động Tối. Các di tích
chùa mới gồm cổng Tam Quan, tháp chuông, Bảo Tháp, điện Quan Âm, điện Pháp Chủ,
điện Tam Thế và khu trung tâm Phật giáo.
Khu sinh thái Tràng An: là hành trình du lịch bằng thuyền
theo vòng khép kín, nhanh nhất khoảng 2 giờ. Với cảnh quan tự nhiên của sông suối,
rừng cây, hang động và các di tích lịch sử văn hóa: đền Trình thờ hai vị giám
quan, phủ Khống thờ 7 vị quan trung thần, đền Trần thờ thần Quý Minh trấn giữ
thành Nam.
Ngoài ra với thời gian dài hơn và các nghiên cứu chuyên đề,
du khách còn thăm viếng và tìm hiểu tất cả các di tích khác nằm rải rác trong
khu di tích và các di tích gắn với quê hương nhà Đinh như động Thiên Tôn, động
Hoa Lư và đền thờ Đinh Bộ Lĩnh.