Cụm di tích Đền – Đình Liễu Giai, ngõ 345 Đội Cấn, phường Liễu Giai, quận Ba Đình, thành phố Hà Nội. Đình Liễu Giai thờ thành hoàng Hoàng Phúc Trung, người lập ra “Thập tam trại” ở phía tây-nam thành Thăng Long thời Lý. Liền kề là đền thờ Thuỷ Tinh phu nhân thời Trần và Thánh Mẫu của bà.
Đình Liễu Giai thờ phụng Thành hoàng là vị phúc thần Thái
giám Hoàng Phúc Trung, gốc làng Lệ Mật, Gia Lâm. Theo truyền thuyết, ngài là
người có công tìm vớt thi thể công chúa nhà Lý, được vua ban cho vùng đất hoang
phía tây-nam kinh thành Thăng Long.
Ngài chiêu mộ dân Lệ Mật sang xây dựng, lập khu Thập tam trại
nổi tiếng. Các đầm lầy và đồi cây nhiều thú dữ đã trở nên trang trại sầm uất,
nhân dân an cư lạc nghiệp. Liễu Giai là một trong 13 trại đó.
Làng vốn nhỏ, chỉ một giáp, dân không đông, theo Ngô Vi Liễn
năm 1928 làng gồm 334 người; họ Nghiêm đông nhất, bên cạnh các họ Nguyễn, Trần,
Ngô. Nơi đây từng có nhà thờ Liễu Giai, nay là khách sạn La Thành.
Liền kề đình là đền Liễu Giai, thờ Thánh Mẫu và Thuỷ Tinh
phu nhân. Theo thần tích còn lưu ở đền, tại làng Phan Sơn, huyện Bằng Châu, phủ
Nam Sách, tỉnh Hải Dương, có một gia đình họ Lý húy là Nghi, vợ họ Hoàng có
truyền thống văn học. Lý Nghi làm quan bộ Lễ dưới triều Trần, nhân đi chơi thuyền
về phía tây thành Thăng Long thấy chim nhạn sà xuống một hồ nước nhỏ, địa thế
khúc khuỷu, nhác trông như con thiên mã, bèn đến xây nhà rồi cho vợ dời quê lên
đấy.
Một hôm trời nóng, bà ra hồ Bạch Nhạn tắm. Bỗng dưng sóng gợn,
hiện lên một con rắn trắng bơi đến rồi quấn chặt mình bà.
Năm sau, đúng giờ Thìn ngày 21 tháng 3 Giáp Thìn, bà sinh ra
một bé gái, đặt tên là Ngọc Nương, càng lớn càng xinh, đức độ hiền hòa thông
minh hơn người. Năm 18 tuổi, Ngọc Nương đi thuyền ngắm trăng vào đêm 17 tháng 8
âm lịch, đến địa phận trại Liễu Giai thì gặp cơn dông.
Thuyền đắm, Ngọc Nương hóa. Bố mẹ vô cùng thương xót, xây miếu
thờ nàng trên mảnh đất long chầu hổ phục cạnh hồ Bạch Nhạn, sau gọi là hồ Đống
Nước.
Đời vua Trần Anh Tông, quân giặc sang xâm lược nước ta, Ngọc
Nương đã âm phù giúp vua đánh bại quân xâm lược. Vua ra sắc chỉ ban cho dân
làng 100 quan tiền tu bổ sửa chữa miếu thờ và sắc phong cho nữ sĩ: “Vạn cổ huyết
thực dư quốc đông vô viết vi nữ bạch hổ trang, thủy tinh tôn linh công chúa hộ
nhi đệ nhất tử”. Hàng năm, vào ngày sinh và ngày hóa của Thánh Mẫu Ngọc Nương
hai làng Đống Nước (nơi sinh) và Liễu Giai (nơi hóa) mở hội lớn, tế lễ linh
đình. Đám rước đi từ đền Đống Nước sang đền Liễu Giai rồi quay lại.
Đền Liễu Giai sau nhiều lần tu sửa hiện nay mang phong cách
nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn. Đền được xây theo hình chữ “Công” trên một
khu đất cao nhìn về hướng tây. Từ ngõ 345 Đội Cấn đi vào hơn trăm bước, du
khách sẽ thấy một khuôn viên rộng lớn, cây cối um tùm. Phía trước có Tam quan,
sau tam quan là sân trước, hai bên có lầu Cô, lầu Cậu, ở giữa là đền thờ Thánh
Mẫu, bên hữu có lầu Mẫu Cửu Trùng Thiên.
Đền Liễu Giai quay hướng tây nam. Tòa tiền tế 5 gian xây kiểu
“đầu hồi bít đốc”, kết cấu dạng “thượng chồng rường, hạ kẻ chuyền” với những
hàng cột gỗ lim. Hai trụ biểu nhô cao, đỉnh trụ đắp 2 đôi chim phượng ấp bụng
chổng đuôi lên.
Phía dưới có 2 bức bình phong bằng gạch, đắp hình bạch hổ và
thanh long. Những bức chạm ở cửa bức bàn và bên trong đền mang hình tùng, lộc,
mai, hạc và rồng, phượng, rùa, lân, đào, trúc, cúc, sen trông rất phong phú,
tinh tế. Hai đầu đốc của tiền tế có đắp nổi 5 con dơi chụm đầu vào nhau, biểu
thị “ngũ phúc lâm môn”.
Sau cánh cửa bức bàn làm kiểu thượng song hạ bản, chảm nổi
tùng, lộc, mai, hạc, có niên đại thế kỷ XIX là tác phẩm đẹp. Các bộ phận của kiến
trúc Tiền tế như đầu dư, cốn nách đền được chạm khắc rồng phượng, các mảng chạm
này đều có niên đại thế kỷ XIX.
Từ tiền tế, du khách đi qua một “ống muống” xây đơn giản, có
bày hương án thờ rồi tới hậu cung gồm 3 gian kiểu “vì kèo quá giang”, trang trí
với chút ít hoa văn truyền thống, nơi đặt các pho tượng Cô, Cậu và Tam Phủ Hồng
Nương trong hệ thống tín ngưỡng thờ Mẫu của dân gian. Bên tả ngôi đền còn có một
Phật điện xây theo hình chữ “Đinh”, phía trước có sân nhỏ và hòn non bộ, phía
sau có cây si cổ thụ và nhà khách.
Ngoài những tác phẩm kiến trúc và điêu khắc, đền còn bảo lưu
được nhiều di vật quý hiếm: 1 cỗ kiệu bát cống sơn son thếp vàng rực rỡ, 1 khám
thờ cao 2,2m, rộng 1,8m, sâu 1,1m; 1 đôi câu đối; 1 bức đại tự v.v... Trong
khám thờ còn có 3 pho tượng Mẫu. Ở gian bên trái Hậu cung còn có tượng Quỳnh
Nương, tượng hầu.
Lễ hội đền Liễu Giai được mở vào ngày 16 và 17 tháng tám âm
lịch hàng năm, chính hội là 17 tháng tám. Trong các ngày hội, sau phần lễ là
múa bồng, hát văn... Đặc biệt, ngày 21 tháng ba âm lịch là ngày giao hiếu giữa
làng Liễu Giai và làng Đống Nước - chính là ngày sinh của Ngọc Nương công chúa.
Bên cạnh đó, đền lưu giữ được một số tư liệu chữ Hán của các
triều đại trước đây gồm 1 đôi câu đối, 1 bức đại tự, 2 cuốn thần phả do Hàn lâm
viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính soạn năm 1572 và 1 đạo sắc phong cho Thủy
tinh phu nhân vào năm Thành Thái nguyên niên (1888).
Nghi môn đình Liễu Giai có 3 cổng với tượng 2 ông Hộ pháp đứng
gác, trước mặt là bình phong đắp cuốn thư. Du khách bước vào sân trước sẽ thấy
bên phải là ngôi đền, bên trái có phòng họp và nhà khách; đi vòng qua hồ bán
nguyệt sẽ đến sân sau nằm dưới bóng mấy cây cổ thụ được gắn biển “Cây Di sản Việt
Nam”.
Đình mới được tu sửa cao ráo, có 3 gian rộng, kiến trúc kiểu
chữ “Nhất” khá đơn giản. Bên phải có thêm một nếp nhà nhỏ làm nơi tưởng niệm Hồ
Chủ Tịch, xa hơn là cổng hậu.
Trong đền có cỗ kiệu gỗ sơn son thếp vàng khá lớn, bên trên
đặt long đình hình tháp kiểu chồng diêm. Bốn góc mái ở phần đỉnh tạo dáng phượng
xòe cánh và ngóc đầu lên giữa nóc mái thay cho đầu đao.
Mái dưới của long đình trang trí hình rồng, với trán cao, mắt
lồi, mũi sư tử, sừng và hai tai hất ra phía sau tạo thành cặp “Long – Phượng” rất
sinh động. Phần xung quanh của long đình còn chạm hình nghê, phượng và chữ triện.
Lớp giữa của phần kệ trang trí chạm thủng hình cây cỏ hóa rồng và chạm nổi hình
song phượng chầu nguyệt… Hai điểm giữa của tay kiệu chạm hình song phượng, lưỡng
long chầu hổ phù. Hai đòn giữa chạm hai đầu rồng hướng ra ngoài, đòn nhỏ ở dưới
chạm nguyên một hình rồng khá đẹp. Đây chính là một hiện vật hiếm thấy trong
kho tàng nghệ thuật chạm khắc của thế kỷ 19.
Trong đình bài trí khám thờ bằng gỗ sơn son thếp vàng, bên
trong đặt tượng Tam Phủ. Ngoài ra còn có 1 bát hương lớn tráng men trắng vẽ
lam, 2 cỗ tam sự và 1 quả chuông đồng đúc từ thời nhà Nguyễn.
Đình Liễu Giai là một quần thể kiến trúc văn hoá tín ngưỡng
khá hoàn chỉnh, với một mặt bằng khá rộng rãi. Kết cấu trong từng nếp nhà vẫn bảo
lưu được loại hình kiến trúc cổ. Hệ thống di vật gỗ chạm của đình rất phong phú
như: kiệu, long ngai, hương án, cửa võng, đèn lồng... đã tôn thêm vẻ đẹp kiến
trúc đình.
Đình Liễu Giai hiện còn bảo lưu được 01 đạo sắc phong có
niên hiệu Khải Định năm thứ 9 (1924). Trong đình còn nhiều di vật có giá trị
văn hoá lịch sử cao như tượng thờ thần bằng gỗ với những nét chạm tinh tế tài
nghệ, các đồ thờ tự như: chuông đồng, đỉnh đồng, lư hương, hoành phi, câu đối,
bát bửu... hầu hết là những hiện vật mang nghệ thuật trang trí thế kỷ XIX, XX.
Hội đình Liễu Giai được tổ chức vào ngày 12 tháng giêng âm lịch.
Đình Liễu Giai đã được Uỷ ban nhân dân thành phố Hà Nội xếp hạng di tích lịch sử,
kiến trúc nghệ thuật năm 2002.
Ảnh tư liệu: Hanh Dangthiminh/Đền Miếu Việt
Nguồn: Di tích Lịch sử Văn hóa Hà Nội