Cụm dich tích Đình – Chùa Dục Tú, xã Dục Tú, huyện Đông Anh, thành phố Hà Nội. Đình Dục Tú thờ phụng Sỹ Nhiếp, thái thú Giao Châu đã có công truyền bá Nho học ở Việt Nam, Chùa Dục Tú, tên chữ là Chùa Tiên Canh thờ Phật.
Xã Dục Tú có tên Nôm là Kẻ Dộc, vào đầu thời Bắc
thuộc gọi là trang Đường An. Trước đó là một vùng đất bãi bồi ven
sông Cổ Giang, Dục Tú là vùng đất cổ, được ca ngợi là đất “Dục Chung Anh – Tú Hải
Hà” với nghĩa “Nuôi khí thiêng để làm đẹp sông biển”. Các cụ già ở Kẻ Dộc
kể rằng ngoài sử dụng binh lính và phu thợ, An Dương Vương còn được các
nàng tiên đêm đêm gánh đất giúp xây thành Cổ Loa. Trước khi về trời, các nàng
tiên đã rũ sọt bên bờ sông Cổ Giang và để lại đây mấy gò đất như: Gò ông Bổn,
Gò đất Đỏ…
Thời Lê, nơi đây thuộc tổng Cổ Loa, huyện Đông Ngàn, phủ Từ
Sơn, trấn Kinh Bắc. Đầu thời Nguyễn, nằm trong tổng Dục Tú, huyện Đông Ngàn, phủ
Từ Sơn, trấn Kinh Bắc. Đầu thế kỷ XX, trực thuộc phủ Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Từ ngày 31 tháng 5 năm 1961, xã Dục Tú trực thuộc huyện
Đông Anh, nhập vào thành phố Hà Nội. Phía nam giáp 2 xã Đông Hội, Xuân Canh,
tây giáp xã Cổ Loa đều thuộc Đông Anh, đông giáp huyện Gia Lâm (Hà Nội), bắc
giáp xã Châu Phong (Từ Sơn, Bắc Ninh).
Cổng làng Dục Tú. Photo NCCong ©2021
Theo thống kê năm 2004, xã có 15.976 dân, chủ yếu làm nghề
nông. Tổng diện tích tự nhiên hơn 848 ha. Có 2 con đường Gia Lương và Dục
Tú chạy qua các thôn: Ngọc Lôi, Thạc Quả, Dục Tú, Phúc Hậu, Lý Nhân, Đồng Dầu,
Nghĩa Vũ, Đình Tràng. Khi khai quật di chỉ Đình Tràng vào thế kỷ XX, các nhà
khảo cổ học đã tìm thấy nhiều mũi tên đồng và những tiêu bản động vật có niên đại
xác định từ thiên niên kỷ thứ I trước công nguyên.
Đình Dục Tú
Đình Dục Tú dựng trên nền một ngôi đền thờ Sĩ Nhiếp.
Chỉ cách đền khoảng 25km là Luy Lâu, trị sở cũ của Giao Châu (thời Tam
Quốc). Theo sử sách phong kiến, Sĩ Nhiếp do vua Hán Hiến Đế bổ làm thái thú
Giao Châu, tại đây ông đã truyền bá mạnh mẽ Khổng học, đồng thời chăm lo
phát triển kinh tế và có mưu đồ tách khỏi nhà Đông Hán đang suy tàn.
Toàn cảnh đình Dục Tú. Ảnh tư liệu Minh Xuân- Đền Miếu Việt
Theo các cụ già trong làng thì lần trùng tu đình sớm nhất
còn nhớ được là vào giữa thế kỷ XVII. Xưa kia, từ Dục Tú có con đường thủy
thuận tiện cho giao thương theo Ngũ Huyện Khê - một dòng sông chảy qua 5
huyện và nối sông Đuống với sông Cầu.
Sĩ Nhiếp – Người đã có vai trò thúc đẩy một bước mạnh mẽ
phát triển nho học ở Giao Châu. Theo thần tích của làng cũng như sách “Việt điện
u linh” thì Sĩ Nhiếp là người có đạo đức, hiếu hạnh, liêm chính. Vào thời vua
Hán Hiến Đế đã làm Thái thú đất Giao Châu. Trong sách “Đại Việt sử ký toàn
thư”, nhà viết sử Ngô Sĩ Liên ghi ông ở ngôi 40 năm, thọ 90 tuổi.
Ông là người khoan hậu, khiêm tốn, lòng người yêu quý, giữ cả
đất Việt, chống với thế mạnh Tam Quốc, đã sáng suốt lại mưu trí, có thể gọi là
bậc vua hiền…Ông được, bổ làm Thái thú Giao Châu (tức Giao Chỉ – một phần nước
Việt Nam ngày nay), phong là Long bộ đình hầu, đóng đô ở Liêm Lâu (tức Long
Biên).
Sau nhà Trần truy phong ông làm “Thiên cảm gia ứng linh vũ đại
vương”. Khi làm Thái Thú, Sĩ Nhiếp luôn chăm lo đời sống Nhân dân đất Giao Chỉ
và được các sử gia đánh giá là một nhân vật tích cực.
Đình Dục Tú được xây
dựng sau khi Sĩ Nhiếp mất không lâu. Ngôi đình Dục Tú còn giữ đến ngày nay đã
được trùng tu lại, có kiến trúc vào khoảng thế kỷ XVII đẹp thanh thoát, mang đậm
dấu ấn của ngôi đình truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ.
Đình có quy mô kiến trúc rộng lớn với tổng thể kiến trúc gồm
giếng đình, sân, tiền tế, đại đình, hậu cung và đền liền sát. Sân đình rộng lát
gạch bát tràng cổ. Đại đình có 4 mái với 4 góc đao cong. Hậu cung gồm 3 gian,
xây dựng kiểu đầu hồi bít đốc với 4 hàng chân.
Trong đình Dục Tú hiện vẫn còn lưu giữ được nhiều di vật
quý, như đôi vẹt thờ làm từ thế kỷ XVII, cuốn Thần phả ghi sự tích của Sĩ Nhiếp
cùng 18 đạo sắc phong thần, trong đó có 7 sắc phong thời Lê, 2 sắc phong thời
Quang Trung và 9 sắc phong thời Nguyễn và nhiều đồ thờ khác làm dấu ấn nghệ thuật
thế kỷ XVIII-XIX, các mảng chạm khắc đẹp, sinh động, các mái cong hài hòa uyển
chuyển.
Nhà đại bái đình Dục Tú. Ảnh tư liệu Minh Xuân- Đền Miếu Việt
Đền trong khuôn viên đình Dục Tú. Ảnh Nhiều tác giả/ Google Images
Hàng năm, vào ngày 12 tháng Hai (âm lịch), dân làng lại tổ
chức lễ hội với nghi thức tế, lễ để tưởng nhớ công lao của ông. Tại lễ hội bao
giờ cũng có tổ chức thi thả chim câu với
khát vọng tự do, hòa bình, cầu cho quốc thái dân an, vạn vật hưng thịnh.
Chùa Tiên Canh
Nằm trong Kinh Bắc với trung tâm phật giáo Luy Lâu, chùa Dục
Tú ra đời từ rất sớm, có thể là từ thế kỷ VIII-XI. Ngôi chùa đầu tiên theo lời
kể của các bậc cao niên trong làng là chùa Thức, được dựng trên bãi đất
cao bên sông Cổ Giang, sau có thể mang tên chùa Hội, chùa Bà Tông … cho đến
khi chùa mang tên chợ Vòng thì bị phá, dân làng chuyển chùa về nhà Thọ Lão ở
đình làng như hiện nay.
Chùa Tiên Cảnh đã qua nhiều đời trùng tu, sửa chữa, năm Quý
Dậu đời Gia Long (năm 1813), năm Ất Mùi đời Minh Mệnh (năm 1835) và năm Tân Hợi
đời Tự Đức (năm 1851).
Chùa Tiên Cảnh do nhiều lần chuyển dời, qua nhiều biến cố lịch
sử và một phần do tiêu thổ kháng chiến nên hiện nay quy mô kiến trúc của chùa
còn nhỏ. Chùa hiện tại là phần kiến trúc nhà Thọ Tứ của đình làn được dựng vào
năm 1887. Chùa quay hướng Nam nhà dạng chữ Nhị với 2 nếp 3 gian 2 dĩ.
Mặc dù qua nhiều lần chuyển dời song chùa Tiên Cảnh vẫn còn
lưu giũ được nhiều di vật, đặc biết là hệ thống tượng tròn, mang những đặc
trưng nghệ thuật của từng thời kỳ. Mỗi pho tượng được tạo tác là sự khắc họa
tính cách của từng nhân vật trong truyền tích lịch sử. Trong toàn bộ hệ thống
tượng, đáng chú ý là bộ tượng Tam thế, tượng Thập diện và tượng Phật Di Lặc.
Bên cạnh đó, chùa còn lưu giữ được một số di vật cổ như: bia đá, chuông đồng được
đúc năm Minh Mạng 16 (năm 1835).
Chùa Tiên Canh trong khuôn viên đình Dục Tú. Ảnh nhiều tác giả/ Google Images
Nằm gần trung tâm Phật giáo Luy Lâu, các ngôi chùa thờ Phật
dần dần ra, đáp ứng lòng sung kính của người đương thời. Chùa là nơi gửi gắm
tâm linh. Những ngôi chùa cổ từ xa xưa cũng đã thu hút không ít các công hầu,
khanh tướng đến cửa thiền lễ Phật. Chùa Tiên Cảnh hơn thế, đã tiếp nhận mọi sự
công được, trong đó có cả hai thứ phi của Ngô Vương Quyền, người con gái đã từng
tận tâm trong việc tu bổ ngôi chùa của quê hương. Không những vậy, nơi đây còn
là vùng đất của nhiều nhà khoa bảng.
Cùng với đình Dục Tú, chùa Tiên Cảnh hợp thành một quần thể
kiến trúc đẹp và khá độc đáo ở phía Tây Bắc thủ đô Hà Nội ngày nay. Chùa là di
tích ra đời sớm, dấu vết vật chất của các thời kỳ lịch sử còn in đậm trên kiến
trúc và các di vật văn hóa. Từ quy mô bề thế của kiến trúc đến các kết cấu, các
mảng chạm khắc đẹp, sinh động, các mái công hài hòa, uyển chuyển đến các viên gạch
Bát Tràng cổ còn lại trong di tích giúp chúng ta hiểu thêm về di tích này.
Chùa cùng với đình đã được Bộ Văn hóa- Thể thao và Du lịch xếp
hạng Di tích lịch sử văn hóa năm 1995.
Nguồn: Di tích Lịch sử Văn hóa Hà Nội