Đình Tàm Xá, ngôi đình rất linh thiêng thờ 5 vị Thành hoàng là: Cao Sơn, Quý Minh, Tản Viên sơn thánh, thủy thần Long Linh và nữ thần Cẩm phu nhân công chúa. Đặc biệt, hiện nay đình còn lưu giữ được 72 đạo sắc phong, đây là những cổ vật quý giá cần được bảo tồn.
Tàm Xá (còn gọi Vườn Vải hay Tầm Xá) là một xã với khoảng
4200 người sinh sống trên dải phù sa rộng hơn 247 ha do sông Hồng bồi đắp.
Xưa kia dân chủ yếu trồng dâu nuôi tằm. Hiện nay gần nửa diện tích đất tự
nhiên tại đây đã được UBND huyện Đông Anh quy hoạch thành vùng trồng hoa và
cây cảnh. Năm 2020, xã có khoảng 90 ha và 348 hộ có nghề trồng quất.
Hàng năm số lượng quất giống đạt gần 170 nghìn cây, riêng
quất cảnh được bán trong dịp Tết là 70 nghìn cây. Tháng 11-2020, UBND TP Hà Nội
ra quyết định công nhận danh hiệu “Làng nghề quất Tàm Xá”.
Dân Tàm Xá vốn quần cư trên bãi nổi. Do bị lụt lớn năm
1861 tàn phá nên hai năm sau họ xin đất Chiêm Trạch bên sông và xây dựng lại
đình, chùa, miếu thành cụm. Hằng năm, dân làng vẫn giữ lệ chèo thuyền sang
để tế lễ.
Nửa cuối thế kỷ XX, con sông Hồng đổi dòng chảy, thành
ra đến năm 1973 UBND TP Hà Nội cho dân làng di sang định cư trên cánh đồng
trước kia thuộc hai xã Xuân Canh và Vĩnh Ngọc.
Làng mới lập vẫn giữ tên cũ, có thôn Đoài, thôn Đông. Phần
lớn diện tích canh tác vẫn nằm ngoài đê, hiện các hộ dân đều xây nhà
trong đê và gắn biển số một cách thống nhất, theo đúng quy định về đánh số
ngõ, số nhà.
Ngôi đình làng thuộc đất thôn Đoài, thờ 5 vị thành
hoàng gồm Tản Viên tam thánh (Tản Viên, Cao Sơn, Quý Minh), Long Linh (con
của Âu Cơ - Lạc Long Quân) và Cẩm phu nhân (bà còn có miếu thờ riêng).
Đình hiện lưu giữ được bản sắc phong năm Quang Trung thứ 5 (1792) do đó có
thể đoán rằng Cẩm phu nhân từng làm cung nữ thời vua Lê - chúa Trịnh. Các
sắc phong khác còn cho thấy đình đã tồn tại từ cuối thế kỷ XVI đầu
thế kỷ XVII.
Năm 1992, ngôi đình Tàm Xá (và chùa Linh Ứng Tự) đã được Bộ
Văn hóa - Thông tin xếp hạng là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
Kiến trúc
Đình Tàm Xá ngày nay chỉ lưu giữ được một phần kiến
trúc và đồ thờ của ngôi đình lớn đã mất. Đình nằm trong khuôn viên
cạnh chùa Linh Ứng Tự, trước chùa là miếu Cẩm phu nhân, cổng chung nhìn
ra đê ở phía tây-nam. Mặt bằng xây dựng của đình và miếu đều có
hình chuôi vồ, tiền tế 3 gian, các cánh cửa chạm khắc gỗ. Trong đình
bày 04 long ngai, 01 hương án với bát hương, đỉnh trầm cổ v.v.. Ngoài
ra còn có những tảng đá lớn và bia, tượng, cửa võng, kiệu bát
cống.
72 đạo sắc phong - những báu vật vô giá
Về số lượng và niên đại của sắc phong
Trải qua bao biến cố lịch sử cùng với những tác động của
thiên tai, các bản sắc phong ở đình Tàm Xá còn được lưu giữ rất cẩn thận, được
xem là báu vật vô giá của tiền nhân truyền lại. 72 đạo sắc phong thần của 3 triều
đại phong kiến Việt Nam bắt đầu từ niên hiệu Đức Long triều Lê Trung hưng cho đến
niên hiệu Khải Định triều Nguyễn, trong đó: triều Lê Trung hưng có 44 đạo sắc
phong thần với niên hiệu Đức Long ban cấp 7 đạo sắc phong, niên hiệu Dương Hòa
ban cấp 9 đạo sắc phong, niên hiệu Phúc Thái ban cấp 5 đạo sắc phong, niên hiệu
Thịnh Đức ban cấp 6 đạo sắc phong, niên hiệu Vĩnh Thọ ban cấp 3 đạo sắc phong,
niên hiệu Cảnh Trị ban cấp 3 đạo sắc phong, niên hiệu Dương Đức ban cấp 2 đạo sắc
phong, niên hiệu Chính Hòa ban cấp 2 đạo sắc phong, niên hiệu Vĩnh Thịnh ban cấp
2 đạo sắc phong, niên hiệu Cảnh Hưng ban cấp 5 đạo sắc phong, triều Tây Sơn thời
vua Nguyễn Huệ niên hiệu Quang Trung ngũ niên (1792) ban cấp 4 đạo sắc phong,
triều Nguyễn với 24 đạo sắc phong gồm: niên hiệu Minh Mệnh ban cấp 2 đạo sắc
phong, niên hiệu Thiệu Trị ban cấp 4 đạo sắc phong, niên hiệu Tự Đức ban cấp 8
đạo sắc phong, niên hiệu Đồng Khánh ban cấp 3 đạo sắc phong, niên hiệu Duy Tân
ban cấp 3 đạo sắc phong và niên hiệu Khải Định ban cấp 4 đạo sắc phong, ngoài
ra còn 1 sắc sao lịch triều phong tặng thập bát đạo do các triều đại phong tặng
18 đạo sắc và gia phong mỹ tự cho thần được thờ tại đình Tàm Xá.
Trong mỗi bản sắc phong tại đình Tàm Xá đều có ghi rõ niên đại
chính xác đến tận ngày, tháng, năm. Niên đại của sắc phong được ghi ở cuối văn
bản gồm niên đại triều vua ban sắc, tháng, ngày ban sắc, ví dụ như: Dương Hòa
tam niên, tam nguyệt, nhị thập thất nhật (Ngày 27 tháng 3 năm Dương Hòa thứ ba,
tức là năm 1637, dưới triều Lê Trung hưng); Quang Trung ngũ niên, tam nguyệt,
nhị thập nhất nhật (Ngày 21 tháng 3 năm Quang Trung thứ 5 tức năm 1792, dưới
triều vua Quang Trung nhà Tây Sơn); Tự Đức lục niên, chính nguyệt, thập nhất nhật
(ngày 11 tháng giêng, năm Tự Đức thứ 6 tức năm 1853 dưới triều vua Tự Đức nhà
Nguyễn). Việc ghi niên đại chính xác trên mỗi bản sắc phong là căn cứ để các thế
hệ sau có thể tìm hiểu về phong cách mỹ thuật, thư thể, nghệ thuật trang trí,
văn phong... của từng thời kỳ lịch sử.
Đình Tàm Xá. Ảnh Quang Nam
Trong tổng số 72 đạo sắc phong thần tại đình Tàm Xá hiện
đang lưu giữ có 3 đạo sắc phong được cho là cổ nhất với niên hiệu Đức Long tứ
niên (1632) dưới triều vua Lê Thần Tông. Ngoài ra, đình còn lưu giữ được 4 đạo
sắc phong do nhà Tây Sơn ban cấp vào năm 1792. Khi triều Tây Sơn bị nhà Nguyễn
lật đổ, Nguyễn Ánh lên ngôi vua, lấy niên hiệu Gia Long, ban hành sắc lệnh thu
hồi, phá hủy, tiêu hủy toàn bộ di vật liên quan đến triều Tây Sơn, bởi vậy những
dấu tích và di vật của thời Tây Sơn đến nay còn rất ít, chủ yếu tập trung tại
Bình Định và Phú Xuân, do đó việc lưu giữ được 4 đạo sắc phong này mang ý nghĩa
và giá trị vô cùng quý giá (2).
Về chất liệu, hoa văn, họa tiết trang trí trên sắc phong
Giấy sắc là loại giấy đặc biệt, được nhà vua chuyên dùng để
viết sắc phong cho các di tích đình, đền, cũng như những cá nhân, dòng họ có
công với triều đình và quốc gia. Giấy sắc có nhiều khổ to nhỏ khác nhau, rộng
nhất là 2m x 0,75m, nhỏ nhất là 1,30m x 0,52m, màu vàng (có màu vàng đồng và da
thị).
Loại giấy này quý trước hết là ở nguyên liệu dùng để vẽ lên
bề mặt giấy là vàng, bạc và kim nhũ. Nhờ nguyên liệu này mà giấy sắc có hình thức,
màu sắc đẹp và bền, có thể tồn tại hàng trăm năm mà không hề hư hỏng; thứ hai,
làm giấy sắc đòi hỏi nhiều công phu.
Để làm được tờ giấy sắc đạt tiêu chuẩn, đúng với quy định
đòi hỏi người sản xuất phải thực hiện một quy trình kỹ thuật cầu kỳ từ khâu chọn
nguyên liệu cho đến các công đoạn tiếp theo. Vật liệu chính để làm giấy là cây
dó, nhưng phải là cây dó Thao (cây dó được trồng ở vùng Lâm Thao - Phú Thọ), vỏ
dầy, nhiều ruột còn gọi là dó lụa.
Các công đoạn kỹ thuật về cơ bản giống như làm các loại giấy
dó khác song công phu hơn nhiều và có thêm một số công đoạn kỹ thuật mà các loại
giấy khác không có. Theo bí quyết còn truyền lại ở làng Nghè, để seo một tờ giấy
sắc cho hàng nhất phẩm phải có 5 người thợ cùng góp sức một lúc. Giấy để phong
cho hàng phẩm cấp thấp hơn (tức là từ nhị phẩm xuống tới cửu phẩm), khổ giấy hẹp
hơn, cũng phải cần tới 3 người.
Trong quy trình sản xuất giấy sắc phong thì khâu tinh xảo nhất,
đòi hỏi tay nghề cao là phần vẽ. Người giỏi thì vẽ chạy, còn những người thợ
kém hơn thì vẽ đồ tức là căn cứ vào nét chạy mà tô kim nhũ, vàng, bạc… Hai mặt
của đạo sắc với những nét vẽ có vàng, bạc tô điểm óng ánh lúc mềm mại khi bay bổng
trên chất liệu đặc biệt, quả thật chỉ có ở những bậc nghệ nhân.
Mặt trước vẽ rồng, mây (rồng vẽ cũng tùy theo thứ cấp phong
công, phong thần mà vẽ hai hoặc ba, bốn con). Xung quanh tờ giấy viền truyền chỉ
hay đóng triện tiền. Mặt sau vẽ tứ linh (long, ly, quy, phượng) với bầu rượu,
cuốn thư. Chất liệu vẽ bằng vàng, bạc nguyên chất. Nguyên liệu dùng để vẽ lên mặt
giấy rất quý: vàng, bạc nguyên chất và kim nhũ. Vì vậy, giấy sắc còn được gọi
là giấy Kim Tiên.
Hoa văn được dùng để vẽ trên giấy sắc là các hình tượng biểu
hiện cho uy quyền như: rồng, mây, lưỡng long chầu nhật, tứ linh, hà đồ, lạc
thư… và mang phong cách mỹ thuật của từng triều đại khác nhau. Đi kèm với các họa
tiết hoa văn là một số thư pháp như chữ lệ thời Lê, chữ chân, hành thời Nguyễn.
Người thợ vẽ phải thuộc từng nét hoa văn và phân bố mặt giấy
sao cho đẹp, cân bằng, đúng vị trí, đường nét phải uyển chuyển, bay bổng, sinh
động. Ở các sắc phong đều có hình rồng và mây uốn lượn.
Các sắc phong thời Lê Trung hưng, Tây Sơn hình thức tương đối
giản dị, hình dáng rồng mềm mại, thanh thoát và các đám mây nhẹ nhàng, xen kẽ.
Sắc phong thời Nguyễn có hình rồng uốn lượn, khỏe khoắn, sắc nét, rõ ràng, có
nhiều đám mây xung quanh. Hình rồng và mây được in màu nhũ nổi trên nền giấy
màu vàng thẫm. Như vậy, giấy sắc là sản phẩm kết tinh của thành tựu kỹ thuật cổ
truyền, phương pháp thủ công tinh xảo và óc thẩm mỹ, sáng tạo của nghệ nhân thời
xưa (3).
Về kích thước và chữ viết của sắc phong
Kích thước của các sắc phong có sự khác nhau, ngay cả ở những
sắc phong có cùng niên đại. Nhìn chung, kích thước của các sắc phong thời Lê
Trung hưng tương đối ổn định, chênh lệch ít, chiều dài của sắc phong dài nhất
là 134cm, chiều dài của sắc phong nhỏ nhất là 133cm và chiều rộng của sắc phong
rộng nhất là 51cm, chiều rộng của sắc phong nhỏ nhất là 43,5cm.
Kích thước sắc phong của thời Nguyễn có sự chênh lệch nhau
khá rõ, sắc phong có độ dài nhất là 134cm, chiều dài của sắc phong nhỏ nhất là
114cm, chiều rộng của sắc phong lớn nhất là 52cm, chiều rộng của sắc phong nhỏ
nhất là 49cm. Còn kích thước cỡ chữ của sắc phong cũng có sự khác nhau rất rõ,
sắc phong có chữ có kích thước dài nhất là 108cm, hẹp nhất là 69cm, phần chữ của
sắc phong có chiều rộng nhất là 45cm, hẹp nhất là 39cm.
Điều này phụ thuộc vào số lượng chữ trên sắc phong, nếu số
lượng chữ nhiều thì kích thước sắc phong sẽ rộng, nếu số lượng chữ ít thì kích
thước sẽ hẹp hơn và khoảng cách giữa các hàng chữ trong sắc phong rộng hơn. Cụ
thể là số hàng chữ trên một sắc phong nhiều nhất là có 15 hàng chữ, ít nhất là
có 8 hàng chữ.
Số chữ trên mỗi hàng cũng có sự khác nhau rất lớn, hàng có
nhiều chữ nhất là 23 chữ, hàng có ít chữ nhất là 1 chữ. Kích thước của chữ trên
sắc phong có độ lớn trung bình là 2 cm/chữ và chữ viết trên các sắc phong theo
lối chữ chân phương rất đẹp, rõ ràng, dễ đọc (4).
Về mỹ tự và dấu ấn triện trong các sắc phong
Mỗi mỹ tự trong sắc phong chủ yếu là hai âm tiết. Nội dung của
các mỹ tự thường là ca ngợi công đức của thần như: phổ hóa, phổ trạch, quảng vận,
phù quốc, trí nhân, phù vận, khuông quốc, tích long, tế thế, trạch dân, linh
quang, tứ phúc, hộ quốc, hựu dân, hậu đức, long ân, kiến mưu, khuông tịch, chí
nhân, hùng tài, vĩ lược, tế thế, trạch dân, hùng uy, hào kiệt, an dân...
Thời Lê Trung hưng dùng các mỹ tự để phong cho các thần, tùy
theo triều vua phong tặng tăng thêm một mỹ tự. Qua nghiên cứu 44 đạo sắc phong
thời Lê Trung hưng cho thấy sắc phong sau thường nhắc lại các mỹ tự đã được
phong cho thần và sắc phong sau gồm các mỹ tự đã được sắc phong trước và có
thêm các mỹ tự phong thêm. Các mỹ tự trong những sắc phong giai đoạn này thường
khá dài, với nội dung về ca ngợi thần có công giúp đỡ, phù trợ cho nước, bảo vệ
dân, linh ứng...
Sắc phong thời Quang Trung có đặc điểm dài, nhắc lại toàn bộ
các mỹ tự đã được gia phong của thời trước đó cộng với mỹ tự được gia phong
thêm. Khác với thời Lê Trung hưng và nhà Tây Sơn, các sắc phong triều Nguyễn tại
đình Tàm Xá có mỹ tự thường ngắn gọn hơn.
Tuy nhiên, triều vua Khải Định thì không dùng mỹ tự để phong
tặng cho thần, mà chỉ phong tặng thêm danh hiệu Thanh Phù trung đẳng thần,
Quang Ý trung đẳng thần, Linh Toại Trung đẳng thần. Vào niên hiệu Minh Mệnh năm
thứ 2 (1821), ngày 21-7 ban sắc cho thần là Long Tường, Hộ Quốc, ban phong cho
thần là Chiêu Cách; ban sắc phong cho thần là Quý Minh, Thiên Cương đại vương
gia tặng mỹ tự Bảo Chân; niên hiệu Thiệu Trị tứ niên (1844) ngày 12-8 sắc phong
cho thần là Chiêu Cách, Cảm Phu, Long Tường, Hộ Quốc... đã có công phù giúp đất
nước che chở cho dân, nhiều lần hiển linh ứng nghiệm, nên đã nhiều lần ban tặng
sắc phong, cho phép nơi đó thờ cúng.
Đến niên hiệu Duy Tân năm thứ 1 (1907), tổ chức nghi lễ lớn,
ban chiếu báu để tỏ rõ lòng ân xuống muôn vùng, nghi lễ tổ chức long trọng, ưu
ái cho phép nơi đó được thờ phụng như xưa, cứ đến ngày lễ lớn của quốc gia mà mở
mang việc thờ cúng để ghi vào sổ sách.
Bên cạnh đó, ở cuối các sắc phong thời Lê Trung hưng và nhà
Tây Sơn đều có hai chữ Cố sắc (tức là vì thế nên ban sắc) còn đến triều Nguyễn
bắt đầu từ triều vua Thiệu Trị cho đến triều vua Khải Định hai chữ ở cuối các sắc
phong là Khâm tai (tức là kính cẩn hay có nghĩa là hãy vâng theo mệnh này).
Về chữ trong các con dấu đều được khắc theo lối chữ triện.
Thời Lê Trung hưng chủ yếu khắc bốn chữ Sắc mệnh chi bảo. Thời Tây Sơn dấu triện
được đúc mới, niên hiệu Quang Trung ngũ niên sử dụng kim bảo Sắc mệnh chi bảo
và Tiên nhu chi bảo.
Theo nhiều nhà nghiên cứu, dấu triện Tiên nhu chi bảo chỉ
dùng dưới thời Tây Sơn ở niên hiệu Quang Trung tam niên và Quang Trung ngũ niên
(1792). Đến thời Nguyễn, dấu triện thời Minh Mệnh khắc 4 chữ Phong tặng chi bảo,
từ giai đoạn năm 1828-1945 thì sử dụng dấu khắc Sắc mệnh chi bảo. Tất cả các sắc
phong đều dùng một loại mực màu son đỏ để đóng dấu. Vị trí dấu được đóng ở dòng
ghi niên đại của sắc phong (5).
Tóm lại, những sắc phong ở đình Tàm Xá là những hiện vật
giàu tính khoa học, văn hóa, lịch sử, vật thiêng liêng trong đời sống tâm linh
của cộng đồng dân cư Tàm Xá nói riêng và làng xã Việt Nam nói chung. Đây là những
tài liệu quý lưu giữ phong tục, tập quán, tín ngưỡng thờ thần của cư dân Tàm
Xá, nguồn tư liệu quan trọng góp phần nghiên cứu, tìm hiểu về lịch sử, văn hóa
truyền thống của vùng đất Tàm Xá. Nghiên cứu một cách đầy đủ và tìm hiểu sâu sắc
về sắc phong để thấy được tầm quan trọng của nó với lịch sử, hiện tại và tương
lai.
Di sản
Hàng năm dân Tàm Xá mở chính hội vào ngày 12 tháng 3 âm lịch
nhưng thường kéo dài đến 14 tháng 3, trong đó có các lễ rước kiệu, tế nhập tịch,
tế chính tiệc, tế tống tịch, tế yên vị, tế tư văn, tế các thánh. Nhân dịp
này cũng thường diễn ra các trò dân gian như đấu cờ, múa mặt nạ, bơi chải
trên sông Hồng v.v..
---------------------
1, 2. Vương Thủy, Hồ sơ lý lịch cụm di tích đình, chùa Tàm
Xá, xã Tàm Xá, huyện Đông Anh, Hà Nội, Ban Quản lý di tích và danh thắng Hà Nội,
1992.
3, 4. Phòng Văn hóa và Thông tin huyện Đông Anh, Hồ sơ kiểm
kê di tích đình, chùa Tàm Xá, xã Tàm Xá, huyện Đông Anh, Hà Nội, Tài liệu lưu
hành nội bộ, 2012.
5. Tư liệu Hán - Nôm có trong di tích đình - chùa Tàm Xá,
Tài liệu lưu hành nội bộ.
Nguồn : Tạp chí VHNT số
408, tháng 6 - 2018
Tác giả : Nguyễn Thị
Mỹ Linh