Đình Xuân Trạch thôn Xuân Trạch, xã Xuân Canh, huyện Đông Anh, Thành phố Hà Nội có từ thế kỷ XVIII, thờ thành hoàng Xạ thần Quốc Lang, hoàng tử thứ 5 của vua Hùng thứ 17. Đền thờ mẹ Xạ thần là người làng, tên Trương Trinh Ngoạn.
Thôn Xuân Trạch thuộc xã Xuân Canh. Xã này năm 2004 có
diện tích đất tự nhiên 6,12 km2, dân số 10.063 người. Phía đông bắc giáp xã Cổ
Loa, phía đông nam giáp xã Đông Hội, phía tây giáp xã Tàm Xá, phía tây nam giáp
sông Đuống. Đất xã màu mỡ chuyên trồng màu, xưa kia cung cấp lá dâu cho cả
các làng nuôi tằm ở xung quanh. Lại có con đường cái quan từ bờ bắc sông Hồng
đi lên Thái Nguyên, nay là quốc lộ QL3, tạo cho xã thế thông thương cả hai
mặt thủy bộ.
Xuân Canh có Nguyễn Minh Thông đỗ Tiến sĩ khoa Tân Sửu
(1481) đời vua Lê Thánh Tông, làm quan đến Thừa chính sứ. Năm 1733 lại có
Trương Nguyễn Điều (1685-?) đỗ Sĩ vọng rồi Đệ tam giáp đồng Tiến sĩ xuất thân
khoa Quý Sửu đời Lê Thuần Tông, làm đến Đề hình Giám sát Ngự sử; sau gia đình rời
đến thôn Hàn Lạc, nay thuộc xã Phú Thị, huyện Gia Lâm. Thời Nguyễn, Xuân Canh
là một xã của huyện Đông Ngàn, phủ Từ Sơn, trấn Kinh Bắc (năm 1831 đổi thành tỉnh
Bắc Ninh) và có ba người đỗ Cử nhân: Vũ Huy Lân (1864), Nguyễn Huy Điền
(1870), Nguyễn Chính (1886).
Cổng ̣đình Xuân Trạch. Photo ©NCCong 2022
Năm 1876 thành lập huyện Đông Anh, tổng Xuân Canh chỉ còn lại
4 xã: Xuân Canh, Xuân Trạch, Lực Canh, Mạch Tràng. Năm 1901, huyện Đông Anh thuộc
tỉnh Phù Lỗ (năm 1904 đổi thành tỉnh Phúc Yên). Trong kháng chiến chống Pháp,
Xuân Canh nhập với các làng Lực Canh, Xuân Trạch, Vạn Lộc thành xã Vạn Thắng
thuộc huyện Đông Anh, tỉnh Phúc Yên (năm 1950 hợp nhất với tỉnh Vĩnh Yên
thành Vĩnh Phúc). Tháng 5-1961, xã Vạn Thắng cùng các xã khác của huyện Đông
Anh được chuyển từ tỉnh Vĩnh Phúc về TP Hà Nội. Năm 1965, xã Vạn Thắng đổi lại
thành Xuân Canh.
Lược sử
Trước 1945, xã Xuân Canh có dưới 1000 người, mỗi thôn
xây một ngôi đình riêng. Thôn Văn Bình thờ Triệu Đà. Thôn Xuân Đình thờ ngài
Cửa Ngọ (không rõ lai lịch). Thôn Vân Hoạch thờ Hoàng Lãng Khanh, tướng của
vua Hùng Tuấn Vương. Đình Xuân Canh là đình thôn Thượng Lão, thờ thần núi Cao
Sơn và Linh Lang đại vương. Thôn Xuân Trạch thờ Xạ thần Quốc Lang là con
thứ 5 của vua Hùng thứ 17 tức Hùng Nghị Vương và em của vua Hùng thứ
18 tức Hùng Duệ Vương.
Đình, đền Xuân Trạch. Photo ©NCCong 2022
Theo thần tích, mẹ của Xạ thần là người làng Xuân
Trạch, tên Trương Trinh Ngoạn, bà được thờ trong ngôi đền ở phía sau
đình. Hùng Nghị Vương lập bà làm phi, hiệu Ngoạn Phi Vân. Bà sinh con
trai đặt tên là Minh Lang. Lớn lên chàng võ giỏi và có tài bắn cung,
vua cha đặt cho tên mới là Xạ thần Quốc Lang. Chàng còn lập đàn chữa
khỏi bệnh dịch cho dân quê mẹ, được vua ban đất này làm thực ấp. Xạ
thần cùng các tướng của Hùng Duệ Vương đánh thắng quân Thục sang xâm
lược. Rồi ngài mất tại kinh đô, về sau được phong là thành hoàng
làng Xuân Trạch.
Đình Xuân Trạch
Đình ra đời vào khoảng thế kỷ XVIII, cuối thời Lê trung
hưng. Cổng đình xây kiểu nghi môn, 2 trụ biểu đắp câu đối chữ Hán và
trang trí hoa văn, cửa chính có 2 mái, 2 cửa bên bị thấp do sân được
tôn cao. Đình nhìn hơi chếch về phía tây nam qua sân và cổng ra một ao
nước hình vuông. Hai dãy nhà tả, hữu mạc có kiến trúc đơn giản, kết cấu theo
lối chồng rường, bào trơn, kẻ soi.
Trong đình Xuân Trạch. Photo ©NCCong 2022
Đại đình gồm 3 gian 2 dĩ, tường hồi bít đốc tay ngai, các
mái đình đều lợp ngói ri. Gian giữa bày lộ bộ, chính điện thờ Xạ
thần, sau hương án là cây cung của ngài. Bốn gian bên đặt bia đá khắc
thần tích, kiệu bát cống, chuông trống và đôi ngựa gỗ. Bộ vì làm theo
kiểu “thượng giá chiêng, hạ kẻ chuyền”, dựa trên 6 hàng chân. Trang trí và
các mảng chạm khắc tinh xảo mang phong cách nghệ thuật từ thế kỷ XVIII
đến XIX. Hậu cung sâu 4 gian, kết nối với đại đình theo hình “chữ
Đinh”, sau hương án là khám thờ thần Cao Sơn với long ngai, bài vị, mũ
áo và hòm sắc.
Đền Xuân Trạch
Đền nhỏ và được xây muộn hơn đình, bên trong thờ mẹ
của Xạ thần, nay bố trí như đền thờ Mẫu. Đền quay về phía đông bắc
nhìn qua sân ra một ao nhỏ. Toà tiền tế gồm 5 gian hẹp, mặt trước
mang phong cách nghệ thuật đầu thế kỷ XX với 3 cửa hình vòm và các bức
phù điêu nhỏ. Toà hậu cung sâu 2 gian, kết nối với gian giữa toà tiền
tế theo hình “chữ Đinh”, các mái đều lợp ngói ri. Trong đền còn các
di vật như long ngai, hương án, bát bửu và biển lệnh.
Mặt bên đình, đền Xuân Trạch. Photo ©NCCong 2022
Năm 1996, đình và đền Xuân Trạch đã được Bộ Văn hóa –
Thông tin xếp hạng di tích lịch sử, kiến trúc nghệ thuật quốc gia.