Miếu Hạ Đoạn thuộc làng Hạ Đoạn, xã Đông Hải, huyện An Hải (nay là phường Đông Hải 2, quận Hải An), thành phố Hải Phòng. Miếu thờ vua Ngô Quyền, Đông Hải Đại vương Đoàn Thượng và danh tướng Phạm Tư Nghị, chùa thờ Phật và Mạc triều công chúa Cẩm Hoa.
Cũng tương tự như nhiều di tích lân cận trong vùng như Đằng
Lâm, Đằng Hải, An Biên…, miếu Hạ Đoạn tôn thờ Anh hùng dân tộc Ngô Quyền, người
đã có công đánh tan quân Nam Hán trên dòng sông Bạch Đằng năm 938. Ngoài việc
thờ cúng Ngô Quyền, miếu Hạ Đoạn còn thờ Đoàn Thương, một nhân vật lịch sử dưới
triều Lý và Phạm Tử Nghi, nhân vật lịch sử dưới triều Mạc, thế kỷ XVI.
Từ một di tích có quy mô nhỏ bé ban đầu, đến đời vua Thành
Thái (1899-1907) miếu Hạ Đoạn đã được tu tạo khá bề thế, đồ sộ; là một tổng thể
di tích khép kín như ngày nay. Mặt chính của miếu quay hướng Tây Nam. Toà tiền
đường gồm ba gian và hai dĩ với các mảng chạm, khắc, sơn, đắp vẽ mang phong
cách nghệ thuật thời Nguyễn đầu thế kỷ XX. Toà thiên hương là một kiến trúc độc
lập, nằm giữa tổng thể di tích, cách toà tiền đường 260m; kiến trúc gồm hai tầng,
8 mái, lợp ngói ta. Toà hậu cung gồm ba gian, bốn vì (kiểu chữ đinh).
Miếu Hạ Đoạn còn lưu giữ được khá nhiều đồ thờ tự bằng gỗ,
đá, sắc phong của các triều vua. Tuy nhiên, các hiện vật còn lưu lại thiếu sự đồng
bộ do được dồn về từ một số đền, miếu khác nhau; trong đó nổi bật:
- Tượng Ngô Quyền đặt trong ngai khám cao 118cm x 48cm x
39cm, được tạo theo thế suy tôn, thiết triều, lối tượng tròn thể hiện lòng tôn
kính của Nhân dân đối với vị anh hùng dân tộc.
- Bát hương gốm, niên đại cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII đặt
trên hương án gỗ trong toà hậu cung.
- Hai giá long đao cách điệu thành đôi rồng và ba thanh bảo
kiếm dài 126cm.
- Hậu cung còn lưu giữa hai bia đá kích thước 82cm x 45cm x
14 cm, niên hiệu Thành Thái 15, tức năm 1905; ghi tên tuổi các vị hậu thần tại
miếu trong kỳ tu sửa vào năm trên.
- Kiệu bát cống bằng gỗ vàng tâm, được dùng trong các kỳ lễ
hội, là một tác phẩm tạo hình có giá trị nghệ thuật cao.
- 39 đạo sắc phong; trong đó có 23 đạo sắc từ năm Quang Thiệu
thứ 7 (1522) đến năm Vĩnh Thịnh thứ 6 (1710); muộn hơn là từ năm Vĩnh Khánh 2
(1730) đến năm Khải Định 9 (1924).
Ngoài ra còn có các bộ câu đối, đại tự… ca ngợi công lao, sự
nghiệp của Anh hùng dân tộc Ngô Quyền.
Hằng năm, vào ngày 16 tháng Giêng âm lịch - kỷ niệm ngày
sinh Ngô Quyền, Nhân dân địa phương cùng các đền, từ lân cận tưng bừng tổ chức
kỷ niệm, mở hội làng có tế lễ giao lân giữa ba làng: Lương Xâm, Hạ Đoạn, Xâm Bồ.
Ngoài ra còn có các hoạt động diễn tả động tác chiến đấu như: tục múa roi ở
Trung Hành, múa kiếm ở Hạ Đoạn. Ngày 25-11 hàng năm, tại miếu Hạ Đoạn còn có lệ
giỗ công chúa nhà Mạc là Cẩm Hoa – người có công tu tạo chùa làng, cúng ruộng
vào miếu Hạ Đoạn.
Chùa Hạ Đoạn, tên chữ là Hưng Phúc tự, có khuôn viên vừa phải,
nằm trên cùng mảnh đất với miếu Hạ Đoạn; quay hướng Tây Nam. Trang trí kiến
trúc nghệ thuật mang phong cách thời Nguyễn cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX. Đến
nay vẫn chưa có tài liệu nào xác định chính xác thời gian xuất hiện của ngôi
chùa.
Do vậy, dựa vào kết quả điền dã, đồng thời liên hệ với các sự
kiện lịch sử của địa phương; ngôi chùa được cho rằng đã xuất hiện vào khoảng thế
kỷ XIV. Tại khu vườn tháp của chùa Hưng Phúc, ngoài hai ngôi tháp đá chuyển từ
chùa Bình Kiều về, đáng chú ý có ngôi tháp xây gạch mang tên Văn Thuỷ tháp, chứa
tro cốt của vị sư tổ. Bia đá nhỏ ghi: “Nam mô Văn Thuỷ tháp, thích thiền tổ sư
toạ, hưởng thọ 77 tuổi”. Từ năm Thuận Tông nguyên niên (1388), dân làng vẫn lấy
ngày 23-11 hằng năm là ngày giỗ vị sư tổ đầu tiên của chùa.
Cuối thế kỷ XVI, đầu thế kỷ XVII, con cháu vương triều nhà Mạc
bị truy lùng đã qua lại vùng Hạ Đoạn tu ẩn ở chùa. Nhân dân địa phương còn được
truyền ngôn: Mạc triều công chúa Cẩm Hoa, tên tục là Bưởi đã về ở chùa Hạ Đoạn,
xuất tiền mua ruộng, cúng vào chùa, miếu nơi đây.
Tại chùa còn lưu giữ một số hiện vật đáng lưu ý:
- Hệ thống tượng pháp: Phần lớn đều có niên đại muộn, được
tái tạo từ cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX.
- Chuông đồng niên hiệu Tự Đức 20 (1868) cao 120 cm, đường
kính đáy 60cm do thiện nam, tín nữ thập phương công đức.
Cụm di tích lịch sử - văn hoá chùa và miếu Hạ Đoạn là những
bằng chứng lịch sử của địa phương về chiến thắng Bạch Đằng năm 938 và các giai
đoạn lịch sử tiếp theo. Xét giá trị lịch sử, nghệ thuật và không gian văn hoá của
cụm di tích; miếu và chùa Hạ Đoạn đã được Bộ Văn hoá, Thông tin và Thể thao
công nhận là di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia (Quyết định số
97-QĐ ngày 21/01/1992).
Nguồn: Thành đoàn Hải Phòng