Miếu thờ đức vua Ngô Quyền, tiên tổ Trung Hưng nước ta đầu thế kỷ X. Chính sử đã chép về sự nghiệp của ông khá rõ ràng. Là một trong số 17 làng xã có hệ thống bố phòng, tích chứa quân lương của Ngô Quyền nên Trung Hành được các triều đại kế tiếp phong sắc, hạ chỉ thờ phụng Ngô vương.
Miếu và chùa Trung Hành nằm ở vùng ven đô thuộc phường Đằng
Lâm, Quận Hải An. Tương truyền ở Trung Hành có tứ vật gồm ngôi cổ miếu, chùa,
đình và cả văn chỉ hàng huyện. Cho dù một trong 4 báu vật ấy đã mất đi do sự tàn
phá của chiến tranh và thiên nhiên nhưng vẫn là những di sản quí. Đây là 2 di
tích văn hoá đã được Bộ Văn hoá thông tin ra quyết định xếp hạng năm 1993.
Miếu thờ đức vua Ngô Quyền, tiên tổ Trung Hưng nước ta đầu
thế kỷ X. Chính sử đã chép về sự nghiệp của ông khá rõ ràng. Là một trong số 17
làng xã có hệ thống bố phòng, tích chứa quân lương của Ngô Quyền nên Trung Hành
được các triều đại kế tiếp phong sắc, hạ chỉ thờ phụng Ngô vương.
Trung Hành là tên của một làng thuộc tổng Trung Hành, huyện
An Dương, phủ Kinh Môn, trấn Hải Dương xưa, nay thuộc thuộc phường Đằng Lâm, quận
Hải An, Hải Phòng.
Xưa kia là vùng đất Ngô Quyền đóng quân và huy động sức người,
sức của, đánh quân xâm lược Nam Hán năm 938, mở đầu kỷ nguyên độc lập lâu dài của
đất nước. Là một trong số 17 làng, xã có hệ thống bố phòng, tích chứa quân
lương của Ngô Quyền, nên Trung Hành được các triều đại kế tiếp phong sắc, công
nhận việc thờ tự Ngô Vương.
Đặc biệt Trung Hành vốn nổi tiếng là vùng đất địa linh, nhân
kiệt - nhiều người đỗ đạt, nhiều văn quan, võ tướng có tài, hiện còn được ghi lại
trên văn bia, gia phả các dòng họ. Ngạn ngữ có câu: “An Dương - Trung Hành, Kim
Thành - Quỳnh Khê, thế ngôn chi đa sĩ”, nghĩa là: làng Trung Hành, huyện An
Dương, làng Quỳnh Khê huyện Kim Thành đời truyền có nhiều quan.
Miếu - chùa Trung Hành là cụm di tích được Bộ Văn hoá Thông
tin xếp hạng di tích lịch sử và kiến trúc nghệ thuật cấp quốc gia theo Quyết định
số 57 VH/QĐ ngày 18/01/1993. Cụm di tích này tọa lạc trong một khuôn viên rộng
rãi và đẹp, nằm cạnh tuyến đường lớn Lê Hồng Phong nối liền sân bay Cát Bi với
trung tâm thành phố.
Miếu Trung Hành thờ Ngô Quyền có quy mô vừa phải. Miếu được
trùng tu lớn vào khoảng thế kỷ 17 mà dấu vết còn để lại trên 4 cây cột cái sơn
son tại tòa bái đường.
Những điểm nổi bật của di tích là sự hợp lý, liên hoàn của
toàn bộ khuôn viên di tích.
Miếu có quy mô khép kín, được bố cục theo kiểu nội công ngoại
quốc gồm: cổng tam quan, toà bái đường, hai bên giải vũ và tòa hậu cung (cung
trong và cung ngoài). Nhưng lại tạo ra một không gian mở bởi 2 bên nhà giải vũ
đứng song hành nơi bái đường với thềm hiên cung ngoài.
<iframe width="720" height="385" src="https://www.youtube.com/embed/SwQL8pPnCfE" frameborder="0" allow="accelerometer; autoplay; clipboard-write; encrypted-media; gyroscope; picture-in-picture" allowfullscreen></iframe>
Trong miếu còn lưu giữ được 5 bản sắc phong có niên đại từ
1889 đến 1924 (trong đó có 3 sắc phong cổ) và nhiều cổ vật quý khác có niên đại
vào thế kỷ 19.
Nằm ngay bên cạnh miếu là chùa Trung Hành, tên chữ là Hưng
Khánh Tự. Theo truyền ngôn chùa được khởi dựng từ khá sớm khoảng thời Lý - Trần.
Song dấu vết vật chất còn để lại có niên đại sớm nhất là thời nhà Mạc (thế kỷ
16).
Chùa có quy mô khá lớn, có bố cục kiến trúc truyền thống:
tam quan - gác chuông, toà Phật điện, nhà thờ tổ, vườn bia, mộ tháp. Có thể nói
chùa Trung Hành còn bảo lưu khá hoàn chỉnh về bố cục các công trình kiến trúc
và quy hoạch không gian của một ngôi chùa làng thời Mạc điển hình ở Hải Phòng.
Dưới mái chùa cổ kính này, đang bảo lưu nhiều pho tượng Phật
quý bằng gỗ, mang đậm phong cách dân gian với các đồ án trang trí nghệ thuật được
thờ tại toà phật điện như các pho tượng phật : Tam Thế, A Di Đà, Văn Thù, Phổ
Hiền, Hộ Pháp,…
Đặc biệt tại đây còn lưu giữ pho tượng vị hoàng đế nhà Mạc.
Tượng hoàng đế tạc bằng đá, pho tượng được đặt ở cuối Phật điện, toàn thân phủ
một lớp sơn dày, trông thoáng qua giống như tượng gỗ.
Lễ hội ở Trung Hành diễn ra từ ngày 16 - 18 tháng giêng âm lịch.
Xưa có tục múa roi diễn lại khí thế xung quân, diệt giặc của quân đội thời Ngô
Quyền. Lễ hội thu hút đông đảo nhân dân và du khách đến dự lễ và thưởng thức
các giá trị lịch sử, văn hóa, khoa học.
Ngược theo dòng lịch sử mới thấy được hết sự độc đáo và tâm
linh của ngôi đền này. Trước năm 1945, tổng Đồ Sơn có 2 xã, 5 làng; làng nào
cũng có đình, đền riêng, song hầu như tất cả có duy nhất một vị thành hoàng.
Vị thành hoàng chung của người dân Đồ Sơn xưa được các làng,
xã thờ là thần Điểm Tước. Nguồn gốc của vị thần này bắt nguồn từ một truyền
thuyết xa xưa, kể rằng vùng đất Đồ Sơn đang yên vui bỗng có một con thuỷ quái đến
phá hoại các xóm vạn chài. Được sự giúp đỡ của thần linh, xóm vạn chài trở nên
yên vui, cư dân Đồ Sơn tiến hành lễ cầu duệ hiệu (tên gọi của thần) .
Sau 7 ngày, 5 đêm thì thấy hiện lên nốt chân chim trên mâm bột,
từ đó Điểm Tước trở thành tên gọi của thành hoàng tổng Đồ Sơn (Điểm Tước có
nghĩa là vết chân chim). Từ nguồn gốc của vị thành hoàng làng này, tục chọi
trâu được hình thành ở Đồ Sơn và là tập tục rất lâu đời của người Việt cổ được
lưu giữ cho đến ngày nay.
Với những nghi thức độc đáo mang màu sắc của văn hoá vùng
ven biển, tục chọi trâu Đồ Sơn trở thành một lễ hội đặc biệt mang tầm vóc quốc
gia. Lễ hội chọi trâu được công nhận là di sản văn hóa phi vật thể quốc gia.
Di tích đền Nghè - Đồ Sơn hội tụ đủ cả hai yếu tố vật thể và
phi vật thể để trở thành một di sản văn hoá rất có giá trị, được xây dựng và tồn
tại trong một không gian văn hoá mang đậm bản sắc dân tộc.