Vương Bà Triệu Thị Trinh khảng khái để lại cho đời câu nói anh hùng : "Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp ngọn sóng dữ, chém cá tràng kình ở ngoài biển Đông, đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ cho dân chứ quyết không chịu khom lưng làm tì thiếp người ta".
Vương Bà Triệu Thị Trinh (còn có những tên gọi khác như Triệu
Trinh Nương, Nàng Trinh hoặc là Bà Triệu) sinh trưởng tại làng Cẩm Trướng, huyện
Quân Yên (cũng tức là huyện Quan Yên), quận Cửu Chân. Vào thời nhà Nguyễn, làng
Cẩm Trướng thuộc xã Cẩm Trướng (còn có tên khác là xã Cẩm Cầu) huyện Yên Định,
tỉnh Thanh Hoá.
Ngày nay, làng này thuộc xã Định Công, huyện Yên Định, tỉnh
Thanh Hoá. Theo truyền thuyết Bà sinh ngày 2-10-226. Quê hương của Bà Triệu
cũng chính là quê hương của hai anh em Khương Công Phụ và Khương Công Phục , những
người đã có công khai mạch đại khoa Nho học cho Thanh Hoá nói riêng và cả nước
nói chung .
Bà Triệu mất năm 248, khi mới 22 tuổi. Triệu Thị Trinh là em
gái của Huyện Lệnh Triệu Quốc Đạt, vì cha mẹ chẳng may qua đời sớm nên Triệu Thị
Trinh ở với anh trai. Trước khi dựng cờ khởi nghĩa. Bà Triệu có đến ba sự nổi
tiếng.
Một là nổi tiếng xinh đẹp, một vẻ đẹp rất kiêu sa nhưng cũng
rất thánh thiện. Đương thời vì ai ai cũng đều thấy Triệu Trinh Nương quá xinh đẹp,
bèn nói rằng : "Đẹp như thế thì có thể làm vợ các quan để trở thanh bà này
bà nọ, ấm thân một đời được chứ".
Nhưng Triệu Trinh Nương chẳng những không thèm làm vợ các
quan mà còn khảng khái để lại cho đời câu nói đầy khẩu khí anh hùng : "Tôi
muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp ngọn sóng dữ, chém cá tràng kình ở ngoài biển Đông,
đánh đuổi quân Ngô, cởi ách nô lệ cho nhân dân chứ quyết không chịu khom lưng
làm tì thiếp người ta".
Tuy nhiên, trong thư tịch cổ của Trung Quốc (và một số thư tịch
cổ của ta đã sao chép lại mà không cân nhắc) dung nhan Bà Triệu được mô tả có
phần khác hơn. Điều này chúng tôi xin được bàn đến ở phần sau.
Hai là, nổi tiếng can đảm và mưu trí hơn người. Truyền thuyết
dân gian kể rằng, vùng Cẩm Trướng hồi đó có con voi trắng một ngà và rất hung dữ,
thỉnh thoảng lại về phá hoại mùa màng, ai ai cũng phải sợ.
Để trừ mối hại cho dân, Bà Triệu đã rủ chúng bạn đi vây bắt
con voi trắng một ngà ấy. Bà lùa voi xuống vùng đầm lầy rồi dũng cảm nhảy lên đầu
voi, sau đó kiên nhẫn tìm cách khuất phục. Con voi trắng một ngà khét tiếng
hung dữ rốt cuộc cũng đã phải ngoan ngoãn vâng theo lời Bà và về sau đã trở
thành người bạn chiến đấu rất thân cận và trung thành của Bà.
Ba là nổi tiếng thẳng thắn và không bao giờ dung tha kẻ xấu.
Truyền thuyết dân gian về Bà Triệu ở vùng Thanh Hoá kể rằng, chị dâu của Bà Triệu
(vợ Triệu Quốc Đạt) là một người phụ nữ rất lăng loàn (118), bởi vậy, Bà Triệu
mới tức giận, giết chết chị dâu rồi ra ở riêng tại rừng Bồ Điền, khu rừng này về
sau đổi là rừng Phú Điền (nay thuộc làng Phú Điền, xã Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc,
tỉnh Thanh Hoá) (119). Đây cũng chính là nơi Bà Triệu đã tụ họp nghĩa quân và
phát động cuộc chiến đấu một mất một còn với chính quyền đô hộ nhà Ngô.
Chân dung Vương Bà Triệu Thị Trinh - Tranh sơn dầu của Hoàng Hoa Mai
Khi Bà Triệu bước vào tuổi thanh xuân thì cuộc hỗn chiến Tam
Quốc (Ngô, Thục và Ngụy) cũng đang hồi quyết liệt nhất. Để giữ vững tương quan
về thế và lực với hai nước còn lại, đặc biệt là để có thể tạo ra cơ may làm
thay đổi cục diện theo hướng ngày càng có lợi cho mình, nhà Ngô đã tìm đủ mọi
cách để vơ vét sức người và sức của trên mọi vùng đất mà chúng đang nắm quyền
cai trị.
Mâu thuẫn xã hội giữa một bên là toàn thể nhân dân Âu Lạc bị
mất nước và bị thống trị tàn bạo với một bên là chính quyền đô hộ của nhà Ngô ngày
càng trở nên gay gắt. Nhân lòng căm phẫn của nhân dân và cũng nhân cơ hội trung
tâm của phong trào đấu tranh chống nhà Hán đang chuyển dịch dần ra Cửu Chân, từ
đất quê hương của mình, Bà Triệu đã phát động và lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa rất
lớn.
Vung gươm ra trận
Truyền thuyết dân
gian vùng huyện Hậu Lộc (tỉnh Thanh Hoá) có chuyện Núi đá biết nói khá độc đáo,
theo đó thì vào một đêm thanh vắng nọ, trên triền đá của núi Tùng ở Phú Điền bỗng
có tiếng dõng dạc cất lên rằng :
Có Bà Triệu tướng, Vâng mệnh trời ta. Trị voi một ngà, Dựng
cờ mở nước.
Lệnh truyền sau trước, Theo gót Bà Vương.
Người người nghe lời ấy, ai cũng tin chắc rằng đá trên núi
Tùng biết nói. Lời của đá núi được coi là lời sấm ngôn, lời thiêng liêng chuyển
tải mệnh trời, rằng Bà Triệu là Thiên Tướng giáng trần, là người sẽ ra tay chỉ
huy trăm họ vùng dậy cứu nước và cứu dân.
Bởi niềm tin sâu sắc ấy, nhân dân khắp nơi đã nườm nượp kéo
nhau theo về với Bà Triệu. Núi Tùng từ đó trở thành nơi tụ nghĩa và mãi đến sau
này thiên hạ mới vỡ lẽ ra rằng, trước khi chính thức phát động khởi nghĩa, Bà
Triệu đã bí mật sai người thân tín leo lên núi Tùng, khoét đá thành hang rồi
nhân đêm tối, nấp kín trong hang đá mà đọc thật to mấy câu sấm ngôn nói trên.
Đặt trong bối cảnh chung của thời cổ và trung đại, việc lợi
dụng mê tín của xã hội để rồi khôn khéo tạo ra những sự kiện đầy vẻ huyền bí nhằm
tập hợp và cố kết lực lượng cũng là điều thường thấy. Cách làm của Bà Triệu
cũng chỉ là một trong những thông lệ thường thấy ấy thôi.
Tất nhiên, cơ mưu tạo ra các sự kiện đầy vẻ huyền bí, dù
hoàn hảo và đầy sức thuyết phục đến đâu cũng không thể thay thế cho quá trình
xây dựng uy tín tự thân và hoàn toàn có thật của Bà Triệu. Nhân dân khắp cõi
đương thời đến với Bà Triệu trước hết và chủ yếu cũng bởi uy tín tự thân và
hoàn toàn có thật này của Bà.
Phần lớn thư tịch cố đều nói rằng toàn bộ công lao chuẩn bị
cũng như phát động và lãnh đạo cuộc khởi nghĩa chống ách đô hộ của nhà Ngô vào
năm 248 là của Bà Triệu, nhưng, cũng có vài truyền thuyết dân gian và một số ít
thư tịch cổ lại nói rằng Bà Triệu thực ra chỉ là người kế tục sự nghiệp còn dở
dang của anh trai Bà - Huyện Lệnh Triệu Quốc Đạt.
Tài liệu thư tịch, ghi chép điều này rõ hơn cả có lẽ là của
Quốc Sử Quán triều Nguyễn. Theo đó thì : "Khi ta nội thuộc nhà Ngô, các
quan Thú mục phần nhiều chỉ lo bóc lột, dân không sao chịu nổi, cho nên (Triệu)
Quốc Đạt liền nổi binh chống lại. Được ít lâu, ông mất, dân chúng thấy Bà là
người có tướng tài, bèn tôn Bà làm Chúa để cầm cự với quân Ngô." .
Song, cứ như lời kể của hầu hết truyền thuyết dân gian thì rất
có thể Triệu Quốc Đạt không phải là người khởi xướng nhưng ít nhất ông cũng là
người ủng hộ một cách đắc lực và đầy hiệu quả cả về tinh thần lẫn vật chất cho
em gái mình trong cuộc chiến đấu chống quân Ngô. Và, ông đã qua đời trước khi
cuộc khởi nghĩa phát triển đến đỉnh cao.
Năm 248, từ chân núi Tùng ở khu vực Phú Điền (nay thuộc xã
Triệu Lộc, huyện Hậu Lộc, tỉnh Thanh Hoá), Bà Triệu đã hạ lệnh xuất quân, nhất
loạt tấn công quyết liệt vào các lị sở của quân Ngô tại quận Cửu Chân.
Đời truyền rằng : "Bà Triệu ra trận, chân đi guốc ngà,
đầu đội nón ngà, lưng thắt dải lụa, ngực che yếm vàng, mình cưỡi bành voi, dáng
mạo thật oai phong lẫm liệt." Bà Triệu được nghĩa sĩ của mình đồng
lòng tôn làm Nhụy Kiều Tướng Quân và thề sẽ cùng Bà chiến đấu đến cùng với
quân Ngô.
Nghe tin Bà Triệu dựng cờ xướng nghĩa. đông đảo nhân dân ở
khắp các địa phương mà trước hết là quận Cửu Chân đã nô nức xin theo. Đàn ông,
đàn bà, người già, người trẻ... sức lực và tài nghệ tuy có cao thấp khác nhau
nhưng tất cả đều quyết một lòng đánh giặc cứu nước. Lực lượng nghĩa quân của Bà
Triệu vì thế mà phát triển rất nhanh. Ca dao Thanh Hoá có câu rằng :
Ru con, con ngủ cho lành
Để mẹ gánh nước rửa bành con voi.
Muôn coi lên núi mà coi,
Coi Bà Triệu tướng cưỡi voi đánh cồng.
Túi gấm cho lẫn túi hồng,.
Têm trầu cánh kiến cho chồng ra quân.
Khu vực núi Tùng nhanh chóng trở thành đại bản doanh của
nghĩa quân Bà Triệu. Dưới chân núi Tùng là một thung lũng nhỏ, được bao bọc bởi
dải núi đá vôi thấp. Đây là cửa ngõ phía Bắc của đồng bằng Thanh Hoá, lại nằm gần
biển nên có vị trí rất thuận tiện cho cả khi phòng thủ lẫn lúc tổ chức phản
công. Hiện trong thung lũng nhỏ ớ dưới chân núi Tùng vẫn còn có những địa danh
như :
- Đồng Vườn Hoa (đại bản doanh của Bà Triệu).
- Đồng Xoắn Ốc (một trong những bức thành kiên cố của bộ chỉ
huy nghĩa quân).
- Đồng Lăng Chúa (nơi có mộ của Bà Triệu).
Sát bên núi Tùng là núi Chung Chinh, tuy hiện nay dấu tích
còn lại nơi đây chỉ rất mờ nhạt nhưng người ta vẫn còn có thể sơ bộ hình dung
được vị trí của bảy đồn luỹ cổ mà nhân dân địa phương cho là do lực lượng nghĩa
quân Bà Triệu xây dựng nên.
Tại bảy đồn luỹ cổ này, đời truyền rằng Bà Triệu đã từng trực
tiếp chỉ huy hơn ba chục trận ác chiến với giặc Ngô. Đây cũng chính là một
trong những địa phương còn truyền tụng rất nhiều truyền thuyết về Bà Triệu.
Trước khi Bà Triệu phát lệnh khởi nghĩa, kẻ đứng đầu chính
quyền đô hộ của nhà Ngô ở nước ta là Thứ Sử Lữ Đại - viên quan được chính triều
đình Ngô Đại Đế coi là "cẩn thận, chu đáo và giàu phương lược mưu kế vỗ về",
được tin cậy và đánh giá rất cao, nên mới phong cho Lữ Đại làm Trấn Nam Tướng
Quân, tước Phiên Ngung Hầu.
Nhưng, guồng máy thống trị do Lữ Đại cầm dầu cũng chẳng làm
dược gì ngoài sự tàn ác. Lữ Đại trở thành kẻ thù không đội trời chung của các tầng
lớp nhân dân ta, thành đối tượng tiêu diệt đầu tiên của Bà Triệu.
Bởi thực sự lo sợ, giặc dã tung toàn bộ lực lượng ồ ạt đánh
mạnh vào quận Cửu Chân với hi vọng có thể nhanh chóng đè bẹp được nghĩa quân của
Bà Triệu, nhưng dù đã cố hết sức mình, chúng cũng không thể nào thực hiện dược
điều này.
Để chia rẽ nghĩa quân, giặc đã xảo quyệt phong cho Bà Triệu
đến chức Lệ Hải Bà Vương (nữ vương xinh đẹp của vùng ven biển), song, Bà không
một chút xao động. Để mua chuộc Bà Triệu, giặc bí mật sai tay chân thân tín tới
gặp và hứa sẽ cung cấp cho Bà thật nhiều tiền bạc, song, Bà cũng chẳng chút tơ
hào.
Sau hơn nửa năm trời trực tiếp đối địch và cũng là hơn nửa
năm trời liên tiếp chịu nhiều thất bại đau đớn, hễ nghe tới việc phải đi đàn áp
Bà Triệu là binh lính giặc lại lo lắng đến bạt vía kinh hồn. Bởi vậy, đương thời
mới có thơ rằng :
Hoành qua đương hổ dị, Đối diện Bà Vương nan.
Nghĩa là :
Vung gươm đánh cọp xem còn dễ, Đối mặt Bà Vương mới khó sao.
Bùng lên trước hết và
chủ yếu là ở khu vực quận Cửu Chân nhưng ảnh hưởng mạnh mẽ và rất to lớn của cuộc
khởi nghĩa Bà Triệu lại nhanh chóng lan rộng khắp cả Giao Châu, đúng như chính
sử của Trung Quốc đã thừa nhận là : "Cả Giao Châu đều chấn động".
Bấy giờ, cả triều đình Ngô Đại Đế lấy việc mất Giao Châu làm
mối lo hàng đầu. Một kế hoạch đàn áp có quy mô lớn, một quyết tâm bình định
Giao Châu đã gấp rút được xây dựng.Thử thách của nghĩa quân Bà Triệu vì thế mà
trở nên cực kì cam go.
Ngàn năm, thanh trường kiếm cùng mặt trời sáng mãi
Xin được mượn lời dịch của câu thơ chữ Hán Thiên thu trường
kiếm dữ nhật quang làm tiêu đề cho đoạn kết của phần viết về Bà Triệu -
người phụ nữ đã lập nên huân nghiệp đối với lịch sử nước nhà. Mặt Trời và Mặt
Trăng mãi còn, giang sơn và dân tộc này mãi còn thì tên tuổi bất khuất và thanh
gươm đúc bằng chí đại định của Bà Triệu cũng sẽ mãi còn toả sáng.
Nhưng, trước khi bàn về đoạn kết của cuộc đời Bà Triệu, có lẽ
chúng ta cần trở lại với thực trạng của nhà Ngô và của cuộc chiến đấu ở khu vực
núi Tùng giữa thế kỉ III.
Bấy giờ, nguy cơ sụp đổ hoàn toàn của chính quyền đô hộ đã
xuất hiện ngày một rõ và nếu điều này xảy ra, nhà Ngô thật khó có thể tồn tại
trước những cuộc tấn công của hai kẻ thù là Thục và Ngụy.
Xuất phát từ nhận thức đó Ngô Đại Đế buộc phải điều viên tướng
thuộc hàng lừng danh nhất của mình đi đàn áp Bà Triệu. Viên tướng thuộc vào
hàng nổi tiếng nhất đó chính là Lục Dận :
Binh qua trải bấy nhiêu ngày,
Mới sai Lục Dân sang thay phiên thần.
Lục Dận là cháu của tướng Lục Tốn - viên lão tướng rất được
Ngô Đại Đế tin cậy. Trước khi lên đường, Lục Dận dược Ngô Đại Đế phong làm Thứ
Sử Giao Châu, hàm An Nam Hiệu Uý. Nhà Ngô giao cho Lục Dận 8.000 quân và nhiều
tuỳ tướng từng trải thử thách trong nhiều lần xuất trận khác nhau. Đó là cố gắng
cuối cùng, cũng là cố gắng cao nhất của chúng.
Đến Giao Châu, Lục Dận còn được quyền thống lãnh tất cả lực
lượng quân Ngô đã có mặt từ trước và đang tham gia những cuộc đàn áp nghĩa quân
của Bà Triệu. Đến Giao Châu, Lục Dận đã có hai quyết định hệ trọng. Một là tiếp
tục thực hiện mưu đồ mua chuộc, nhưng đối tượng chính không phải là Bà Triệu mà
là đội ngũ tì tướng, những người chỉ huy các đơn vị nhỏ trong lực lượng của bà
Triệu. Lục Dận đã lập luận đúng rằng, làm sao chúng có thể mua chuộc được một con
người tài cao đức trọng như Bà Triệu.
Nhưng, Bà Triệu sở dĩ trở nên hùng mạnh vì chung quanh Bà và
dưới quyền của Bà còn có biết bao nhiêu con người khác mà nhìn chung là khả
năng nhận thức chưa thể sánh với Bà.
Mua chuộc được những con người này cũng chính là đã chặt đứt
dần vây cánh của Bà Triệu và đẩy Bà Triệu vào thế cô, đến đó, Bà Triệu sẽ không
còn là đối thủ đáng sợ nữa. Đời truyền rằng, bởi thủ đoạn rất xảo quyệt này, Lục
Dận đã khuất phục được hàng trăm tì tướng của Bà Triệu và ngót năm vạn dân.
Hai là bình tĩnh và bí mật cho quân đi do thám để điều tra
cho bằng được mặt mạnh và mặt yếu của Bà Triệu, tức là theo đúng tinh thần lời
dạy của binh pháp Trung Quốc cổ :"Tri bỉ, tri kỉ, bách chiến bách thắng"
(biết người, biết ta, trăm trận trăm thắng).
Và, trên cơ sờ những tin tức mà chúng đã cất công thu lượm
được, kết luận cuối cùng của Lục Dận về Bà Triệu là "ái khiết, uý ô"
(thích sự sạch sẽ, lịch lãm và nhã nhặn, ghét sự bẩn thỉu, vô lễ và khiếm nhã).
Từ kết luận cuối cùng này, Lục Dận đã tổ chức đàn áp theo kiểu nham nhở chưa từng
thấy.
Sử cũ chép : "Lục Dận dò biết đặc tính Bà Triệu rất ưa
sự sạch sẽ và rất ghét sự bẩn thỉu, bên nghĩ ra một kế rồi mới cho hạ lệnh xuất
quân. Khi Bà Triệu cưỡi voi vung gươm ra trận thì thấy tất cả quân Ngô đều trần
truồng mà cầm giáo xông thẳng về phía Bà, chẳng khác gì một lũ điên cuồng rồ dại.
Bà Triệu thẹn chín cả người, dẫu rất căm tức nhưng Bà cũng đành phải lui quân về
một ngọn núi khác ở khu vực Bồ Điền. Sau, Bà hoá ở đây. Năm ấy Bà 23 tuổi.
".
Nói khác hơn, theo lời ghi chép trên thì Bà Triệu tuy là
thua trận nhưng vẫn giữ được cái duyên đằm thắm, hiền thục và nết na của một
người con gái, giặc Ngô tuy thắng nhưng tiếng xấu về sự nham nhở thì còn mãi với
muôn đời.
Tiếng xấu ấy càng trở nên nặng nề hơn bởi sau đó, để thoả
lòng căm giận, giặc đã không ngừng tìm cách bôi nhọ Bà Triệu. Chúng gọi Bà Triệu
là Triệu Ẩu. Trong tiếng Việt cổ, nếu Dạ là từ dùng để chỉ người phụ nữ lớn tuổi
mà được kính trọng, thì ngược lại, Ẩu là từ dùng để chỉ người con gái trẻ tuổi
mà bị coi thường.
Trái với ghi chép của thư tịch cổ, chân dung Bà Triệu trong
tình cảm nồng hậu của các thế hệ nhân dân ta thể hiện qua truyền thuyết dân
gian, có một vẻ đẹp rất thánh thiện mà cũng thật đoan trang, rất thuỳ mị với mọi
người nhưng cũng rất dũng mãnh với kẻ thù. thật xứng đáng với vinh hiệu Nhụy Kiều
Tướng Quân.
Lúc bấy giờ, dù xuất phát điểm của quân Ngô có chứa chất sự
lừa mị và xảo quyệt đến mức độ như thế nào đi chăng nữa thì chúng cũng đã hoàn
toàn đúng khi định sử dụng mĩ hiệu Lệ Hải đặt trước tước vị Bà Vương để phong
cho Bà.
Xét cụ thể từng chi tiết, tất nhiên là có những chỗ hậu thế
thật khó mà đồng tình, nhưng xét về tổng thể thì rõ ràng là Quốc Sử Quán triều
Nguyễn đã hoàn toàn có lí khi hạ bút viết Lời phê rằng : "Con gái nước ta
có nhiều người hùng dũng lạ thường. Bà Triệu Ẩu thật xứng là người sánh vai được
với Hai Bà Trưng. Xem thế thì há có phải chỉ Trung Quốc mới có đàn bà danh tiếng
như chuyện Thành Phu Nhân và Nương Tử Quân mà Bắc sử đã chép đâu."
Ở khu vực núi Tùng, mộ của Bà Triệu vẫn được đời nối đời
trân trọng gìn giữ, đền thờ Bà Triệu đã gần hai chục thế kỉ qua vẫn nghi ngút
khói hương. Tên tuổi và sự nghiệp của Bà Triệu đã trở nên bất diệt với vạn cổ
thử giang sơn (muôn đời sông núi này) (132) và mãi mãi toả sáng trong sử sách
cũng như trong kí ức của các thế hệ nhân dân yêu nước :
Tùng sơn nắng quyện mây trời, Dấu chân Bà Triệu rạng ngời sử
xanh.
Nguồn: Danh tướng Việt Nam tập 4