Ba Vì là vùng đất cổ, có lịch sử, văn hóa lâu đời, bảo lưu nhiều tập quán xã hội độc đáo. Ngày 25/02/2018, tại di tích đền Hạ thuộc xã Minh Quang, huyện Ba Vì tổ chức đón Bằng chứng nhận tục thờ Tản Viên Sơn Thánh là Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia; đồng thời khai hội Tản Viên Sơn Thánh, điểm nhấn của du lịch Ba Vì.
Trung tâm thờ phụng
Dựa trên truyền thuyết theo lời kể của các cao niên ở huyện
Ba Vì thì Sơn Tinh (Tản Viên Sơn Thánh) có hai người em họ là Sùng Công và Hiển
Công. Ba anh em mồ côi cha mẹ từ sớm, ngày ngày vào rừng kiếm củi sinh sống.
Sau khi được tiên ông ban gậy thiêng và thần chú, Sơn Tinh và hai người em đã cứu
giúp nhiều người, diệt trừ thú dữ… nên được nhân dân tôn làm Thần sư.
Sau này, Sơn Tinh được tiên ông ban sách ước nên đã thắng Thủy
Tinh và lấy được Công chúa Mỵ Nương (Ngọc Hoa theo một số điển tích khác) của
vua Hùng. Sau khi đánh thắng quân Thục, Vua Hùng phong cho Sơn Tinh là Nhạc phủ
Thượng đẳng thần, Hiển Công là Cao Sơn Đại vương, Sùng Công là Quý Minh Đại
vương.
Tượng thờ Tản Viên Sơn Thánh
Tục thờ Tản Viên Sơn Thánh ở huyện Ba Vì được công nhận là
Di sản văn hóa phi vật thể quốc gia. Ảnh: Hồng Đạt
Do có công lao to lớn với dân, với nước, Tản Viên Sơn Thánh
được tôn phong là vị tổ của bách thần, một trong “tứ bất tử” của thần linh nước
Việt. Đến thời nhà Lý, Tản Viên Sơn Thánh được phong là “Thượng đẳng tối linh
thần” và “Đệ nhất phúc thần”.
Đền Thượng thờ Sơn thánh Tản Viên trên núi Bà Vì
Tưởng nhớ công đức của ngài, nhân dân ở nhiều địa phương đã
lập đền thờ. Hiện trên địa bàn 8 huyện, thị xã của TP Hà Nội có 176 di tích thờ
Tản Viên Sơn Thánh, trong đó huyện Ba Vì có 100 di tích, phân bố tại các xã:
Cam Thượng, Cổ Đô, Thụy An, Đông Quang, Vật Lại, Đồng Thái, Thái Hòa, Khánh Thượng,
Tản Lĩnh, Minh Quang, Cẩm Lĩnh, Phú Sơn, Thuần Mỹ, Tòng Bạt, Sơn Đà, Phú Châu.
Thực tế này khẳng định tục thờ Tản Viên Sơn Thánh có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng trong đời sống tâm linh của nhân dân huyện Ba Vì.
Lễ hội tại các di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh thường diễn ra vào khoảng Rằm
tháng Giêng hằng năm. Di tích thờ phụng Tản Viên Sơn Thánh lâu đời và tiêu biểu
nhất là đền Thượng, đền Trung, đền Hạ (thuộc địa bàn hai xã Ba Vì và Minh
Quang), đình Tây Đằng (thuộc thị trấn Tây Đằng), đình Thụy Phiêu (xã Thụy An),
đình Khê Thượng (xã Sơn Đà)...
Ngoài lễ vật thông thường như gà, lợn, xôi, rượu, hương hoa
thì mỗi nơi thờ Tản Viên Sơn Thánh trong các kỳ tiệc lớn lại có lễ vật riêng.
Trong đó, lễ vật không thể thiếu là lợn hoặc gà phải có màu lông đen tuyền. Nếu
lợn, gà cúng Thánh mà có sợi lông trắng thì năm đó cả làng làm ăn không may mắn...
Tất cả những đồ lễ Thánh đều gợi nhớ thời kỳ săn bắt hái lượm và thể hiện lòng
biết ơn của nhân dân đối với Tản Viên Sơn Thánh...
Lễ hội Tản Viên Sơn Thánh ở huyện Ba Vì luôn có phần lễ và phần hội. Trong phần
lễ, thủ nhang (người đại diện cho nhân dân trong vùng) sẽ đọc văn tế nhắc lại
công trạng của Tản Viên Sơn Thánh trong không khí trang nghiêm, trong đó đặc biệt
nhấn mạnh sắc phong với những mỹ hiệu tôn.
Phần hội có nhiều trò diễn mang tính truyền thống thượng võ
và cần cù, sáng tạo trong lao động của nhân dân, như múa lân, múa rồng, chơi
đu, đánh vật, chọi gà, bơi thuyền, bắt vịt, đi cầu leo... Những hoạt động này đều
nhắc lại công tích của Tản Viên Sơn Thánh trong việc dạy nhân dân làm nghề nông
và luyện quân…
Tập quán hàm chứa rất nhiều giá trị văn hóa truyền thống
Theo đánh giá của các nhà nghiên cứu văn hóa, tập quán thờ Tản Viên Sơn Thánh ở
huyện Ba Vì hàm chứa nhiều giá trị về lịch sử, văn hóa, xã hội… Về giá trị lịch
sử, tập quán thờ Tản Viên Sơn Thánh không chỉ tưởng nhớ tới người anh hùng văn
hóa, vị thánh đứng đầu trong “tứ bất tử” của người Việt mà còn thể hiện ước vọng
chinh phục tự nhiên, chiến đấu chống thiên tai, lũ lụt để bảo vệ mùa màng và cuộc
sống cho nhân dân.
Tượng thờ Tản Viên Sơn Thánh theo Đạo giáo
Tín ngưỡng thờ Tản Viên Sơn Thánh cũng góp phần khẳng định về
sự tồn tại của thời đại Hùng Vương - Nhà nước đầu tiên trong tâm thức của người
Việt. Bên cạnh đó, tập quán thờ Tản Viên Sơn Thánh mang ý nghĩa hướng về cội
nguồn, hàm chứa giá trị giáo dục truyền thống “Uống nước nhớ nguồn”...
Để bảo vệ di sản, những năm qua, huyện Ba Vì đã phối hợp chặt
chẽ với các cơ quan liên quan kiểm kê và lập hồ sơ khoa học “Tập quán thờ Tản
Viên Sơn Thánh” trên địa bàn huyện. Nhóm nghiên cứu của huyện Ba Vì đã phỏng vấn,
ghi âm, văn bản hóa truyền thuyết, truyền miệng về Tản Viên Sơn Thánh và tập
quán thờ ngài đối với hơn 30 người đang nắm giữ và thực hành tập quán thờ Tản
Viên Sơn Thánh…
Huyện Ba Vì phối hợp với các đơn vị liên quan tập trung cho
việc dịch, lưu trữ, bảo quản các thần phả, sắc phong, câu đối; đồng thời,
nghiên cứu, tư liệu hóa truyền thuyết, thần tích và những câu chuyện về Tản
Viên Sơn Thánh và các tướng lĩnh của ngài.
Ngoài ra, huyện sẽ tổ chức một số cuộc tọa đàm với các nhà
khoa học, với cộng đồng, các di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh… nhằm tăng cường sự
gắn kết cộng đồng bảo vệ di sản; nâng cao nhận thức của nhân dân về giá trị di
sản và các biện pháp bảo vệ di sản…
Núi Ba Vì trong văn hóa người Việt
Núi Ba Vì chiếm một vị trí quan trọng, không những về mặt địa
lý mà còn có địa vị độc tôn trong tâm linh người Việt. Trong nhiều thế kỷ qua,
nhiều sách vở, công trình nghiên cứu đã có một số kết luận về nền văn hóa dân
gian xứ Đoài gắn với truyền thuyết Sơn Tinh – Thủy Tinh liên quan đến núi Ba
Vì.
Ca dao có câu:
Nhất cao là núi Ba Vì, Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn.
Sự thực núi Ba Vì chỉ cao 1.296m, núi Tam Đảo lại cao đến
1.581m, nhưng vì núi này là nơi ngự của Thần núi (thần Tản Viên), nên được nhân
dân tôn vinh thành ngọn núi cao nhất, thiêng liêng nhất. Núi cao ở đây là cao
trong tâm thức, không phải độ cao thấp đơn thuần về mặt địa lý. Truyền thuyết
còn kể lại rằng núi Ba Vì là do Sơn Tinh dùng sách ước nâng núi lên cao, để
ngăn nước lũ chống Thủy Tinh.
Trên núi có ngôi đền cổ thờ vị thần núi với đôi câu đối:
Châu hình đẩu tiễn thiên hoành không
Hạo khí quan mang vạn cổ tồn
Có nghĩa là:
Dáng hình sừng sững ngang trời rộng
Hạo khí mênh mang vạn thuở còn.
Cả trong chính sử như sách Dư địa chí của Nguyễn Trãi cũng
dành nhiều chú ý đến Ba Vì và cho rằng "Núi ấy là núi tổ của nước ta
đó".
Theo sách Bắc Thành Địa dư chí của Lê Đại Cương chép:
"Núi này ở huyện Bất Bạt, phủ Quảng Oai (nay là huyện Ba Vì, Hà Nội). Hình
núi tròn như cái tán nên gọi là Tản Viên, rộng rãi bao la, đứng cao hùng vĩ,
làm trấn sơn cho cả một vùng, cao 2.310 trượng, chu vi 18.605 trượng, hướng tây
có sông Đà chảy quanh theo, rừng cây rậm rạp, cảnh trí đẹp".
Dưới triều Nguyễn, năm Bính Thân, Minh Mạng thứ 17 (1836),
nhà vua truyền đúc Cửu Đỉnh làm biểu tượng cho uy thế và sự bền vững của triều
đình. Hình núi Tản Viên được khắc vào Thuần Đỉnh (cao 2,32m, nặng
1.950 kg) cùng với cửa Cần Giờ và sông Thạch Hãn. Triều Tự Đức năm thứ 3,
Canh Tuất (1850) thì núi Tản Viên được liệt vào hàng những núi non hung vĩ của
đất nước. Hàng năm triều đình làm lễ cúng tế.
Ba Vì, Sơn
Tinh và Xứ Đoài Sơn Tây
Núi Ba Vì không chỉ là ngọn núi huyền thoại về Sơn Tinh – Thủy
Tinh mà còn là ngọn núi linh của xứ Đoài. Những phát hiện về khảo cổ học vùng
văn hóa cổ Ba Vì đã chứng tỏ đây là một vùng truyền thuyết lớn phát triển sớm
trong lịch sử hình thành dân tộc. Đây là nơi ngự trị muôn đời của Thánh Tản
Viên – Sơn Tinh, vị thần tối linh trong Tứ bất tử của tín ngưỡng dân gian Việt
Nam.
Vua nhà Đường đã coi núi Ba Vì như một đầu rồng hùng mạnh,[cần
dẫn nguồn] còn thân rồng chạy suốt tới phương Nam (dãy Trường Sơn ngày nay). Để
nước Nam không thể phát Vương, vua Đường đã cử Cao Biền (vị tướng kiêm phù thủy)
dùng pháp thuật cho đào một trăm cái giếng xung quanh chân núi Ba Vì để trấn yểm
tà triệt long mạch. Nhưng cứ đào gần xong giếng nào thì giếng đó lại bị sập,
nên đành phải bỏ cuộc bởi dãy núi thiêng của nước Đại Việt.
Quanh núi Ba Vì nhiều tên đất, tên làng, tên vạt đồi đồng nội,
tên dòng sông, khe suối, địa danh, địa hình, địa vật, đầm hồ, bờ bãi, đình, đền,
miếu mạo và những con người còn in đậm trong sự tích và chuyện kể dân gian xứ Đoài
gắn liền với truyền thống Sơn Tinh.
Những quả đồi Mòm, dẫy gò Choi thuộc vùng Tòng Lệnh, ở phía
Bắc núi Ba Vì; những trái núi ở vùng Sụ Đá, La Phù và Thạch Khoán; những hòn
núi Chẹ và dãy nũi đá Chèm ở phía Tây thuộc mạn Sông Đà; những dãy đồi Máng
Sòng, Đồi Giếng ở phía Đông núi Ba Vì là những chiến tích của Sơn Tinh, ngày
đêm gánh đất để lập thành phòng tuyến chống lại Thủy Tinh.
Về sự tích "Đồi Đùm đứt quai, đồi Vai lọt sọt".
Chuyện xưa kể lại rằng đồi Vai cao nhất ở xã Kim Sơn là tảng đá rơi vì sọt thủng,
còn dãy đồi Đùm san sát kéo dài ở xã Xuân Sơn là do đứt quang, đất đổ ra nhiều
trên dọc con đường Sơn Tinh gánh đất.
Chuyện cắm chông chà ở bãi Đá Chông, thả rong rào, chăng lưới
ở vùng suối Cái, cho quân gieo hạt mây thành rừng quanh núi U bò, ném lạt tre tạo
thành lũy tre dày ở vùng ngòi lặt, lao gỗ đá từ trên núi xuống tạo thành mười
sáu ngả ở vùng Đầm Đượng v.v… là những phương kế của Sơn Tinh.
Trên bãi chiến trường xưa còn có nhiều dấu tích như suối Di,
sông Tích, ngòi Tôm, đầm Mom, đầm Mít, đầm Sui, xóm Rùa, xóm Cá Sấu ở Vân Sơn
xã Vân Hòa; thôn Rắn Giải ở Phụ Khang thuộc xã Đường Lâm; Thuồng Luồng ở Cầu
Hang vùng sông Tích thuộc xã Thanh Mỹ; Thủy quái ở Ghềnh Bợ trên dải sông Đà…
là những trận đồ tàn binh, bại tướng của Thủy Tinh. Những truyền thuyết dân
gian về cuộc giao chiến giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh chứng tỏ tổ tiên ta đã bắt đầu
cuộc trị thủy mở mang bờ cõi từ hạ lưu sông Đà, sông Tích để tạo ra một vùng
núi Ba Vì trù phú như ngày nay.
Khu vực quanh núi Ba Vì hiện có gần 100 ngôi Đình, Đền thờ
Thánh Tản Viên – Sơn Tinh như Đền Trung, Đền Hạ, Đền Thượng, Đền Đá Đen, Đền Vật
Lại, Đền Măng Sơn, Đền Khánh Xuân, Đi nhđVâ tìYên, nh Yên Nội, Đình Tây Đằng,
đình Mỗ Lao, đình Quất Động, đình Đông Viên, đình Quan Húc, đình Phú Thứ, đình
Thanh Hùng, đình Thụy Phiêu v.v…
Lịch sử
Năm 1932 thực dân Pháp đã chọn núi Ba Vì là nơi nghỉ mát lý
tưởng ở đồng bằng Bắc Bộ, giống như Sa Pa ở Tây Bắc, như Đà Lạt ở Tây Nguyên.
Hiện nay trên núi Ba Vì còn nhiều phế tích thuộc thời Pháp
như nhà thờ đạo, Trại cô nhi viện (cốt 800), khu hành chính (cốt 400), khu quân
sự và khu sinh hoạt của sĩ quan Pháp (cốt 600 – 700), Trại tù (cốt 1100).
Du lịch Núi Ba Vì
Vùng núi Ba Vì có nhiều danh lam thắng cảnh nổi tiếng như Ao
Vua, Khoang Xanh – Suối Tiên, Thác Mơ, Thác Đa, Thác Ngà, Thác Hương, núi Đá Chẹ,
rừng thông Đá Chông (K9), hồ Xuân Khanh, hồ Suối Hai, hồ Đồng Mô – Ngải Sơn, hồ
Tiên Sa, hồ Suối Cả, hồ suối Bóp, hồ suối Mít, đồi cò Ngọc Nhị, khu Đầm Long
v.v… Trong vườn quốc gia Ba Vì còn có Đền thờ Chủ tịch Hồ
Chí Minh, khu di tích lịch sử cách mạng (cốt 600) và nhiều di tích, phế
tích khác.