Danh nhân Hồ Hưng Dật, nguyên tổ họ Hồ Việt Nam, là người Chiết Giang, đỗ Trạng nguyên thời Hậu Hán. Khi vua Đinh Bộ Lĩnh dấy quân dẹp loạn 12 sứ quân, đã gặp ông để tham vấn ý kiến. Ông có góp ý với vua về kế hoạch dẹp loạn 12 sứ quân. Khi vua lên ngôi Đinh Tiên Hoàng Đế đã sắc phong ông trấn thủ Hoan Châu.
Hồ Hưng Dật, nguyên tổ họ Hồ Việt Nam, theo Đại Việt sử ký
toàn thư, cũng như Việt Nam sử lược của Trần Trọng Kim: người Chiết Giang, đỗ
Trạng Nguyên thời Hậu Hán (947 - 951) nằm trong thời Ngũ đại (906 - 960), là
giai đoạn tan rã lần thứ hai của chế độ quân chủ Trung Quốc. Hậu Hán chỉ kéo
dài 4 năm với hai đời vua là Hậu Hán đế Lưu Trí Viễn và Hán Ẩn đế Lưu Thừa Hữu
(theo gia phả do tiến sĩ Hồ Sĩ Dương biên soạn).
Chính sách của Hậu Hán rất tàn bạo: triều đình ban lệnh kẻ
nào lén giữ một tấc da bò, không nôp hết cho triều đình thì bị xử tử. Vì vậy
dân chúng trốn thuế và lánh đi. Hồ Hưng Dật đã nam tiến ngay sau khi đỗ Trạng
nguyên, sang Giao Châu, chính sau cuộc cướp quyền của Dương Tam Kha (945 - 950)
và đối đầu với cuộc nổi loạn Thập nhị sứ quân (945 - 967). Ông tìm nơi lánh nạn
và kiếm kế sinh sống tại hương Bào Đột (xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An).
Đến Hoan Châu, ông quen với ngài Đinh Công Trứ, thân sinh
vua Đinh Bộ Lĩnh. Khi vua Đinh Bộ Lĩnh dấy quân dẹp các sứ quân, có đến gặp
ông, thăm dò xem ông có tham gia dấy quân không. Ông có góp ý với vua Đinh Bộ
Lĩnh về kế hoạch dẹp loạn sứ quân. Còn việc tham gia dấy binh thì ông thổ lộ với
Đinh Bộ Lĩnh là mới lưu lạc đến đây, chỉ xin “vạn đại vi dân” (theo Hồ tộc phả
ký của Hồ Sĩ Phôi).
Thế là sau một cuộc Nam tiến từ đất Chiết Giang xưa là Ngô
Việt nằm trong địa bàn Bách Việt, để tránh Hán hoá, ông đã đến xứ sở Lạc Việt,
hoà nhập với cộng đồng. Sách cũ còn ghi triết lý “phúc bất năng hưởng tận” của
ông để con cháu đời đời chia sẻ với cộng đồng niềm vui, hạnh phúc.
Hơn một nghìn năm từ khi nguyên tổ Hồ Hưng Dật định vị ở
Giao Châu, con cháu họ Hồ (đến nay hơn 40 đời) tiếp thu giáo huấn của nguyên tổ,
phấn đấu làm tròn nhiệm vụ công dân nước Việt trên tất cả các mặt văn trị, võ
công, kinh bang tế thế.
Đền thờ nguyên tổ họ Hồ được các vua Hồ (Hồ Quý Ly, Hồ Hán
Thương) xây cất ở nơi ông lập nghiệp (hương Bào Đột) vào năm Quý Mùi (1403)
niên hiệu Khai Đại thứ nhất. Đây là một ngôi đền lớn với kiến trúc Trần Hồ, chẳng
những là di sản văn hoá có giá trị của Nghệ An, mà của cả nước.
Do không thấy hết giá trị của đền nên đền không được bảo vệ.
Ngày nay, con cháu họ Hồ - cùng với sự giúp đỡ của chính quyền địa phương -
đang có kế hoạch tái tạo lại một phần để tưởng niệm nguyên tổ Hồ Hưng Dật - vị
tổ đã sản sinh nhiều nhân vật kiệt xuất cho đất nước suốt trường kì lịch sử từ
thế kỷ thứ X cho đến nay.
Sự hiểu biết về nguyên tổ họ Hồ Việt Nam chưa nhiều, nhưng
những nét cơ bản đã được Quốc sử khẳng định. Đó là điều sở đắc và niềm vui của
con cháu họ Hồ.
Gần đây trong bài “Nhớ Nguyễn Xuân Phầu” ông Ngô Đức Tiến
(Báo Nghệ An số 2493 ngày 5/3/2000) đã viết: “Khi Trạng Nguyên Hồ Hưng Dật được
cử sang làm Thái thú ở Châu Diễn năm 627, đã chọn Khe Sừng Quỳ Lăng làm châu trị
của châu Diễn là có làng Quì Lăng…”. Chúng tôi không rõ ông Tiến đã dựa vào sử
liệu nào mà viết như thế. Năm 627 là thuộc đời Đường Thái Tông Lý Thế Dân (626
- 649). Trong khi đó, quốc sử ghi Hồ Hưng Dật sang Giao Châu thời Hậu Hán - Ngũ
Đại (947 - 951).
Chả nhẽ ông sang Việt Nam trước khi ông ra đời khoảng 300
năm! Theo Vân Đài loại ngữ thì thế kỷ thứ 7, thứ 8, Quỳ Lăng là trị sở châu Diễn,
qua nhiều triều, trị sở châu Diễn lúc ở Quì Lăng, lúc ở Đường Khê, lúc ở Thành
Trài, lúc ở Diễn Thành. Giữa thế kỷ thứ X, Hồ Hưng Dật mới sang Giao Châu khi
mà Ngô Quyền đã dành độc lập sau 1000 năm Bắc thuộc. Chả nhẽ bấy giờ ông lại
làm Thái thú đô hộ châu Diễn ư?
Có người còn bào Đình Sừng là nơi ở, nơi làm việc của Hồ
Hưng Dật và đề nghị xem đó là đền thờ nguyên tổ họ Hồ. Thật ra, tại đây còn có
dòng chữ ghi rõ: “Tân Phúc đình, Quì Lăng xã, lý tác Hoàng triều Duy Tân” (đình
Tân Phúc, xã Quì Lăng làm vào đời vua Duy Tân).
Chúng tôi nghĩ rằng nếu có cứ liệu ghi rõ trên bước đường
tìm nơi cư trú lập nghiệp, có thời gian Hồ Hưng Dật cư trú tại Quì Lăng thì con
cháu đặt hương án tưởng niệm cụ tại đó là việc làm bình thường (cũng như sau
này đối với tổ Hồ Hồng, ngoài nhà thờ ở Quỳnh Đôi, còn có nhà thờ ông ở Huế, ở
Đà Nẵng - Quảng Nam). Còn nhà thờ chính của nguyên tổ họ Hồ Việt Nam - Hồ Hưng
Dật là ở hương Bào Đột xã Ngọc Sơn, huyện Quỳnh Lưu tỉnh Nghệ An.
Ngày 12/12/2014, Bộ văn hóa thể thao và du lịch có quyết định
số 4106/QĐ-BVHTT&DL xếp hạng Di tích lịch sử cấp quốc gia - Đền thờ Nguyên
tổ Họ Hồ Việt Nam, Trạng nguyên Hồ Hưng Dật - thần thành hoàng; thờ các Vua Hồ
và các bậc tiên liệt họ Hồ Việt Nam.
Đây là sự ghi nhận của nhà nước và xã hội đối với những người
có công với dân, với nước; với một công trình có giá trị lớn về đời sống văn
hóa tâm linh, lịch sử và nghệ thuật kiến trúc.
Đền thờ trạng nguyên Hồ Hưng Dật
Lễ tế tổ họ Hồ (Quỳnh Lưu). Ảnh: Sỹ Minh
Lịch sử của nguyên tổ họ Hồ Theo trang thông tin Họ Hồ Việt
Nam:
Năm Quý Mùi 1403, Vua Hồ Hán Thương vâng lệnh Thái Thượng
Hoàng Hồ Quý Ly xây dựng đền tại thôn Bào Đột (xưa) nay là xã Ngọc Sơn, huyện
Quỳnh Lưu thờ Nguyên tổ họ Hồ Việt Nam – Trạng nguyên Hồ Hưng Dật. Ngài là người
Bách Việt ở Chiết Giang thời Ngũ đại, còn gọi là Ngũ Quý Hậu Hán Ân Đế, là nho
thần về nước ta thời hậu Ngô làm quan Thái thú Châu Diễn (nay là các huyện Diễn
Châu, Quỳnh Lưu, Yên Thành, Nghĩa Đàn).
Đến thời nước ta gặp loạn mười hai sứ quân, ngài lui về làm
trại chủ Hương Bào Đột. Cuộc đời ngài là tấm gương sáng về đức cao vọng trọng
khi ở chốn quan trường, cũng như lúc lui về làm thường dân. Ngài luôn tỏ rõ tâm
niệm và di huấn lại cho cháu con là “Vạn đại vi dân”, nghĩa là muôn đời vì dân,
muôn đời làm dân. Vì vậy, khi ngài qua đời, nhân dân trong vùng tôn thờ ngài là
Thần Thành Hoàng và rước các vua Hồ về cùng phối tế tại đền, nên quen gọi là đền
vua Hồ.
Đền tọa lạc trên vùng đất của dãy núi Y Sảo, thế long ngai vững
chắc, bên phải là Hòn Rồng, bên trái là Hòn Rết và núi Ngọc. Trải qua thời gian
và thăng trầm thế sự, đền vua Hồ dần trở thành phế tích. Với tâm nguyện và ý thức
thành kính tri ân tiên tổ, con cháu họ Hồ Việt Nam đã chung sức, chung lòng quyết
tâm phục dựng lại linh từ của dòng họ. Sau gần 4 năm xây dựng, đền vua Hồ, từ
đường của họ Hồ Việt Nam cơ bản được phục dựng theo quy hoạch.
Trong không gian quy hoạch hơn 150 ha được UBND tỉnh Nghệ An
phê duyệt tại Quyết định số 2697/QĐUB ngày 10/6/2009, đến nay, các hạng mục
chính của đền đã được phục dựng. Các công trình phụ trợ như đường đi, hệ thống
điện chiếu sáng, cấp nước, thoát nước, sân vườn, cây cảnh khá hoàn chỉnh, tạo vẻ
hoành tráng, uy nghiêm, lưu giữ được nét cổ kính của ngôi đền xưa.
Đền là công trình kiến trúc bằng gỗ lim, được phục dựng với
quy mô lớn, đồ sộ, trang trí công phu với nhiều mảng khắc, chạm tinh tế, đẹp mắt,
kết hợp hài hòa giá trị sử dụng với giá trị thẩm mỹ thể hiện được phong cách kiến
trúc cổ truyền của dân tộc. Các tài liệu
và hiện vật được lưu trữ, thờ phụng tại đền giúp chúng ta hiểu biết thêm về bề
dày lịch sử, văn hóa, tín ngưỡng, thờ phụng, phong tục, tập quán, truyền thống
trọng đạo của nhân dân đối với người có công với dân với nước.
Đền thờ trạng nguyên Hồ Hưng Dật
Các hoạt động tế tổ ngày 10 và ngày 11 tháng Giêng Âm lịch,
Lễ hội đền vua Hồ vào tiết Thanh Minh (từ ngày 12 -15 tháng ba Âm lịch) diễn ra
tại đền đang được phục dựng trở thành nét đẹp dân gian, phản ánh tình cảm, sự
biết ơn, ngưỡng vọng của con cháu, của nhân dân đối với các bậc tiền nhân, người
có công; phản ánh phong tục đẹp trong đời sống văn hóa tâm linh và bản sắc văn
hóa của dân tộc.
Thông qua đó, thắt chặt tinh thần đoàn kết cộng đồng, giáo dục
truyền thống, đạo lý “uống nước nhớ nguồn” khơi dậy niềm tự hào tình yêu dòng họ,
quê hương, đất nước; ý thức bảo vệ và phát huy giá trị vĩnh hằng của di tích lịch
sử văn hóa.
Hồ Tất Thắng
(Trưởng Ban liên lạc họ Hồ Nghệ An)