Tướng quân Đào Khỏa, một trong những nam nhân danh tướng của Nhị vua Hai Bà Trưng, có công đánh đồn giặc Hán, chém tướng chỉ huy, diệt hàng nghìn quân địch, góp phần vào chiến thắng Lũy Lâu. Được Nhị Thánh vương phong Tả Tướng quân Sơn Hộ Ba Đường.
Thần phả Họ Đào Việt Nam ghi lại truyền thuyết về danh tướng Đào Khỏa:
“Xưa kia đầu thời Bắc thuộc có một người ở đạo Ái Châu, ông họ Đào
tên huý là Thứ, bà họ Tạ tên huý là Hiển, dòng dõi thi lễ nhiều đời trâm anh.
Vợ chồng nhà họ Đào là người có đức, làm nghề gia truyền bốc thuốc cứu người,
ông bà thường bỏ tiền của ra chu cấp cho người nghèo khó, được dân tôn quý. ông
Thợ tuổi gần 60, bà Hiển hơn 40 tuổi nhưng chỉ sinh được mấy người con gái,
chưa có con trai, ông bà thường than thở không vui. Tất cả những nơi danh lam
thắng tích, động thiêng hoặc đền nổi tiếng không nơi nào ông bà không đến cầu
tự.
Một hôm, nghe nói Ở núi Phượng Hoàng, trang Kiệt Đặc (Chí Linh) trên
núi có điện Lưu Quang rất linh thiêng, cầu gì được nấy, y như sở nguyện, vợ
chồng ông sắm sửa hương hoa đến để bái yết.
Mới tới bên ngoài đã thấy phong cảnh bốn bề lịch lãm, núi cao bao
quanh 2 cánh núi mở như Phượng múa. ông bà làm lễ cầu, khấn rằng: “Xin trời cao
hãy nghe lời cầu khẩn của Thần, Thần nhỏ bé ở dưới trần, tiền tài tất cả chỉ là
của phù vân, chỉ cầu mong một chút con trai, tha thiết xin trời đất và Thần
linh soi xét đến tấm lòng thành ban cho phúc lớn, khiến chúng Thần được đội ơn,
mọi điều trông nhờ là sức phù tuệ của trời đất và Thần linh vậy”.
Đêm hôm đó, nằm trọ ở bên ngoài phía dưới hương án, đến đầu canh ba,
bà họ Tạ mơ màng ngủ thiếp đi, tự thấy một người đàn ông kỳ dị bảo rằng: Vợ
chồng bà có lòng trung thực, gia đình có đức lớn, trời đã soi đến, sớm muộn sẽ
yên, chớ có lo phiền, về sau sẽ có con trai.
Nghe vị tướng Thần nói xong, bà bỗng thấy tinh thần rạng rỡ, có một
tấm lụa từ trên rơi xuống bao quanh lấy người bà. Bỗng nhiên, bà hoảng hốt tỉnh
dậy nói với ông rằng có điềm lành, ngày mai sẽ làm lễ bái tạ. Từ đó thấy trong
lòng phấn chấn, rồi bà có thai, đến giờ Mão ngày 10 tháng 2 năm Quý Mùi sinh ra
một cậu con trai.
Cậu bé thiên tư đình ngộ, mặt mũi khôi ngô, ông biết đó là linh Thần
xuất thế, nên yêu quý con như vàng ngọc. Khi cậu bé 3 tuổi đặt tên là Khoả. Cậu
bé biết phép kính nhường, nghe đọc đã hiểu thấu, nghe nói đã biết hết, mới 7
tuổi đã thông hiểu lịch sử. Năm 13 tuổi biết thêm cả võ nghệ. Các sĩ tử đương
thời phần lớn đều thán phục suy tôn. Năm 18 tuổi cha mẹ đều qua đời, cậu bèn
chọn ngày lành để chôn cất rồi đèn hương thờ, phụng y như lúc còn sống.
Lúc đó, Tô Định dấy binh xâm chiếm nước ta. Dân chúng hết sức điêu
tàn chưa có người cứu vớt. Hai Bà Trưng quê ở Hát Môn đã dấy binh khởi nghĩa
chống giặc Hán, truyền hịch chiêu mộ hiền tài giúp nước.
Một hôm, ông Khỏa đem 200 thân binh đến thẳng quân doanh của Trưng
Vương làm lễ bái yết xin ứng tuyển, sức ông vạn người không địch nổi, Trưng
Vương phong ông làm Tiền đạo Ngô bộ Tướng quân, ban cho vài trăm quân để phòng
ngừa ở hai đạo đông – bắc.
Tướng Khỏa thừa lệnh lãnh binh đường hoàng ra đi, cờ bay vài vạn
dặm, chiêng trống như sấm. Một hôm quân kéo tới xã (trang) Xuân Đỗ, huyện Gia
Lâm, phủ Thuận Thành, đạo Bắc Ninh, khu Hoa Động hội họp ở đó. Thấy địa thế núi
sông hữu tình liền dừng quân, rồi lập tức .truyền quân lập một đồn đề phòng
quân Hán đánh phía sau.
Đêm hôm đó ông ngủ ở miếu, mật cầu Thần linh âm phù, khi diệt xong
giặc sẽ gia phong mỹ tự cho Thần. Đêm đó vào đầu canh tư, trong giấc mơ ông
chiêm bao thấy một người con gái dáng mạo nghiêm trang, nhan sắc tươi tắn, từ
bên đường đi đến xưng là con gái của Lạc Long Quân, làm chúa các Thần núi, tên
là Lâu, nay thấy ông dép giặc tự nguyện xin giúp đỡ về sau xin được cùng phối
hưởng. Hôm đó là ngày 15 tháng 2.
Sáng hôm sau sứ giả mang chiếu thư đến sai ông đem quân tới đánh đồn
của Tô Định, chiếu thư ban cho ông là Tả Tướng quân Sơn Hộ Ba Đường, ông làm lễ
bái yết rồi cầm quân kéo thẳng đến đồn giặc cùng với văn võ bá quan và các Thần
tướng bốn mặt hô vang, đại phá một trận bắt được chủ tướng, còn các bề tôi chém
được vài ngàn, thu khí giới và ngựa, góp sức thu hết 65 thành rồi kẻo quân về
Kinh đô khao thưởng tướng sĩ.
Tả Tướng quân Đào Khỏa dâng biểu tấu Trưng Nữ Vương, giặc Tô Định
sớm bình được là nhờ công của Thần âm phù, Trưng Vương sắc phong cho mỹ tự là
Âm Phù, ông đến khu Hoa Động, trang Xuân Đỗ sửa sang miếu mạo, truyền lệnh cho
các phụ lão, binh sĩ, dân chúng mổ trâu bò làm lễ bái yết thiên địa, thần linh.
Ngày 15 tháng 10, bỗng trời đất tối mù mịt, đám mây hồng như dải lụa
từ trên trời sà xuống, sấm sét nổ vang, mọi người thấy Tướng quân bay vút lên
trời mà hoá. Nghe tin ông mất, Hai Bà Trưng đã ban chiếu cho phép dân làng Xuân
Đỗ lập đền thờ Khỏa Ba Sơn và nữ thần là Thiên Tiên công chúa, nay là Đình Xuân
Đỗ Hạ.
Đình Xuân Đỗ Hạ hiện nay thuộc tổ 11 (Xuân Đỗ Hạ), phường Cự Khối,
quận Long Biên, Hà Nội. Phường Cự Khối phía Bắc giáp phường Long Biên, phía
đông – bắc giáp phường Thạch Bàn, phía nam giáp xã Đông Dư, phía tây là sông
Hồng.
Thời Nguyễn, Xuân Đỗ thuộc tổng Cự Linh, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc
Ninh. Từ năm 1961 nhập về thành phố Hà Nội. Xuân Đỗ vốn là đất bãi của sông
Hồng, có tên nôm là Đậu Hạ.
Khoảng thế kỷ XV – XVI còn là đất bãi, gọi là bãi Xuân Đỗ. Trong
lịch sử, bãi Xuân Đỗ từng là nơi chứng kiến nhiều sự kiện quan trọng trong lịch
sử nước nhà, nhất là ở thế kỷ XV. Năm 1523, nhà Lê đã tổ chức khoa thi Tiến sĩ
tại bãi Xuân Đỗ. Các vua chúa nhà Lê là Lê Chiêu Tông (1516 – 1522) và Hoàng Đệ
Xuân (1522 – 1527) đã xây dựng Hành cung, lập triều chính trên địa phận của
làng để tránh sự kiểm soát của Vương thần Mạc Đăng Dung.
Đình Xuân Đỗ Hạ được xây dựng ở vị trí trung tâm của làng, cách
trung tâm thành phố Hà Nội khoảng 10km. Nằm trong địa bàn sinh tụ chính của cư
dân Việt cổ thời dựng nước, làng cổ Xuân Đỗ có lịch sử tồn tại và phát triển từ
rất lâu đời.
Làng có tên chữ là Hoa Động, tên gọi cổ là Xuân Đỗ Trung. Dấu tích
vàng son của thời quá khứ hiện còn lưu lại đậm nét trong hồi ức của nhân dân
Xuân Đỗ là hệ thống di tích lịch sử văn hóa cổ xưa của làng.
Nguồn tư liệu thành văn hiện còn lưu giữ
tại di tích như: Thần phả, sắc phong, hoành phi, câu đối, văn bia khẳng
định, Đình Xuân Đỗ Hạ phụng thờ vị nữ Thần là công chúa Lâu Ly Nương và danh
tướng Đào Khoả Ba Sơn. Lai lịch và công tích của Thần được Đông các Đại học sỹ
Nguyễn Bính ghi lại khá chi tiết trong cuốn Thần phả của đình.
Công tích và sự nghiệp của Thần được các vương triều hậu Lê, Tây Sơn
và Nguyễn đánh giá cao và ban sắc phong Thần, cho phép dân làng Xuân Đỗ thờ
phụng mãi mãi. Hàng năm, vào ngày 9 tháng 2 âm lịch, làng thường mở hội lớn
tưởng nhớ công đức của Thần. Sau khi tế lễ ở đình rồi rước nước từ đình đến bến
nước Bồ Đề. Theo tục truyền, dân mang chum, gáo bơi thuyền ra sông Nhị Hà múc 3
gáo nước đổ vào chum đem về nấu nước với trầm để bao sái đồ thờ vào ngày 10
tháng 2, chính lệ lễ dùng cỗ chay phẩm vật, bánh dầy, bánh trưng, phẩm quả,
xướng ca trong 3 ngày” .
Đình Xuân Đỗ Hạ có khởi nguồn từ một ngôi đền thờ Thần, tọa lạc trên
một khu đất cao rộng, thoáng mát, quay hướng nam với nhiều kiến trúc bộ phận
tạo thành. Phía bắc, trước có một ao rộng, qua đường gạch nhỏ là một giếng nước
khá đẹp, bên cạnh có miếu thờ Nhị vị Đức Thánh Cô, phía trong là khu đình – một
quần thể kiến trúc liên hoàn khép kín bao gồm nhiều nếp nhà ngang dọc. Ngoài
cùng là cổng đình mới xây kiểu cổng Tam quan, cổng chính là một nếp nhà hình
chữ nhật, mái lợp ngói ta, 2 bên là cổng nhỏ xây kiểu mái hạ đao có trụ biểu.
Phía trong sân là khu kiến trúc chính xây trên nền cao hơn mặt sân
80cm. Tòa đầu là tòa Đại bái (Tán ngoại) 3 gian, mái làm kiểu hạ đao, bờ nóc
đắp hình Rồng chầu mặt nguyệt, mái lợp ngói ta, phía trước của các gian mở các
ô cửa lớn hình chữ nhật, phía trong và 2 hồi thông với nhà Tán nội và 2 dãy
Giải vũ hai bên. Mặt bằng 4 hàng chân cột, 2 bộ vì gian giữa làm kiểu vì
“thượng rường, hạ bẩy” , các con rường trang trí hoa văn thực vật và đề tài tứ
quý (đào cúc trúc, mai), các đầu dư chạm Rồng phun nước.
Nhà Tán nội song song với nhà Tán ngoại, giữa mái hiên Tán nội và
Tán ngoại để một ô trống hình chữ nhật tạo ánh sáng lọt vào di tích, bố cục
kiến trúc tương tự nhà Tán ngoại.
Hai dãy hành lang chạy dọc 2 bên, mỗi đãy 5 gian, mái lợp ngói ta,
phần kiến trúc chính phía trong làm kiểu chữ đinh liền sát với nhà Tán nội cách
nhau 35 cm gồm Tiền tế 3 gian xây kiểu tường hồi bít đốc tay ngai, mái lợp ngói
ta các vì kèo làm kiểu “thượng chồng rường, giá chiêng hạ bẩy”, mở 4 cửa gian
giữa, trang trí chữ thọ tròn, 4 con Dơi đậu 4 góc gọi là “Tứ phúc viền thọ” hợp
thành Ngũ phúc (phú, quý, thọ, khang, ninh). Toà Hậu cung 2 gian nhỏ, kết
cấu đơn giản, kiểu vì “thượng rường, hạ kẻ”.
Trải qua những thăng trầm của lịch sử dân tộc, đình Xuân Đỗ Hạ vẫn
lưu giữ được bộ sưu tập di vật văn hóa có giá trị lịch sử nghệ thuật thuộc
nhiều thời đại khác nhau, đặc sắc nhất là cuốn Thần phả chữ Hán và 21
đạo sắc phong thần của ba triều đại Lê, Tây Sơn và Nguyễn.
Sắc sớm nhất có niên hiệu Cảnh Hưng nguyên niên (1787), thời Tây Sơn
có sắc Quang Trung thứ 4 (1792), sắc có niên hiệu muộn nhất là năm Bảo Đại thứ
2 (1927); 2 tấm bia, trong đó có 1 tấm bia niên đại Vĩnh Tộ (1614 – 1628) đặt
trên lưng 1 con Rùa đá, ghi chép việc tu sửa đình.
Ngoài ra, còn các di vật bằng chất liệu gỗ như: 5 cỗ Long ngai, bài
vị chạm Rồng thếp vàng thuộc thế kỷ XVIII; 1 sập thờ trang trí hình Hổ phù ở
phần yếm thuộc thế kỷ XVIII, 1 cỗ kiệu bát cống thếp vàng thế kỷ XIX; 1 kiệu
Long đình thế kỷ XX; 1 bức cửa võng 2 lớp chạm hình tứ linh; 10 đối câu đối sơn
son thếp vàng có nội dung ca ngợi cảnh đẹp và công tích của Thần.
Quy mô bề thế và vẻ đẹp cổ xưa của ngôi đình thể hiện qua các công
trình kiến trúc và nội dung thờ tự cho thấy, đình Xuân Đỗ Hạ là một di tích có
niên đại ra đời sớm ở nước ta, có vẻ đẹp độc đáo của kiến trúc cổ Việt Nam.
Những giá trị nêu trên của di tích đã khẳng định đình xuân Đỗ Hạ là
một di sản quý giá cần được trân trọng, bảo vệ và phát huy giá trị. Đối với dân
làng Xuân Đỗ Hạ, ngôi đình là niềm tự hào về truyền thống văn hóa của địa
phương; với du khách bốn phương, ngôi đình là điểm du lịch hấp dẫn trong tuyến
tham quan các di tích lịch sử dọc bờ bắc sông Hồng.
Đình Xuân Đỗ Hạ đã được Bộ Văn hóa – Thông
tin xếp hạng di tích lịch sử văn hóa năm 1994.