Đinh Điền (chữ Hán: 丁佃; 924 - 979) quê ở làng Đại Hữu, nay là xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình, là một trong số những công thần theo Đinh Bộ Lĩnh đánh dẹp 12 sứ quân, lập ra nhà nước Đại Cồ Việt và là người tận trung với nhà Đinh.
Ông là bạn đồng hương, sinh và mất cùng năm với Vua Đinh
Tiên Hoàng. Dân gian xem ông cùng Nguyễn Bặc là những biểu tượng của tinh thần
hào hiệp, trượng nghĩa và trung thành.
Đền Tứ trụ ở Tràng An thờ 4 vị tứ trụ triều Đinh.
Ông được triều đình Trung Hoa và Việt sử tân biên liệt vào
danh sách "Giao Châu thất hùng", tức 7 anh hùng người Giao Châu thời
bấy giờ gồm: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp
và Phạm Cự Lượng. Ông được lập đền thờ ở nhiều nơi thuộc Ninh Bình, Hà Nội, Hải
Dương, Hưng Yên, Thái Bình, Nam Định, Hà Nam ngày nay.
Thân thế
Đinh Điền là bạn đồng hương với (vua) Đinh Bộ Lĩnh, quê ở động Hoa
Lư, châu Đại Hoàng nay là xã Gia Phương, Gia Viễn, Ninh Bình. Theo thần phả đền
thờ Đinh Điền ở Yên Mô, Ninh Bình và theo cuốn "Những nhân vật lịch sử thời
Đinh Lê" thì cha ông là Đinh Thân quê Gia Phương, Gia Viễn, mẹ là Dương Thị
Liễu quê Khánh An, Yên Khánh đều thuộc tỉnh Ninh Bình.
Thuyết khác nói quê mẹ Đinh Điền ở Yên Bạc, nay là xã Yên
Phú, huyện Yên Mô, tỉnh Ninh Bình. Khi mới sinh Đinh Điền có tên gọi là Đinh
Trào. Điền là tên chữ của ông và quen được gọi bằng tên này.
Ông với (vua) Đinh Bộ Lĩnh cùng tuổi (sinh năm Giáp Thân, 924) và
là người cùng làng Đại Hữu, châu Đại Hoàng. Khi còn là trẻ nhỏ, đi chăn trâu ở
Thung Lau (động Hoa Lư, Gia Viễn), Đinh Điền đã cùng lũ trẻ lấy hoa lau làm cờ,
khoanh tay làm kiệu, suy tôn và rước Đinh Bộ Lĩnh làm chúa. Ân tình sâu nặng của
ba người Đinh Bộ Lĩnh - Nguyễn Bặc - Đinh Điền có gốc rễ bền chặt từ cái tuổi
thơ tóc còn xanh mướt dưới bóng cờ lau tập trận, khác với sự gắn bó khi quốc
gia hữu sự; cần dẹp giặc khăn vàng mới “kết nghĩa vườn đào” như Lưu Bị, Quan
Vân Trường, Trương Phi trong lịch sử Trung Quốc.
Nếu như (vua) Đinh Bộ Lĩnh được sử sách đánh giá là tài năng sáng
suốt hơn người, dũng cảm mưu lược nhất đời, Nguyễn Bặc là người thẳng thắn, bộc
trực, hăng hái thì Đinh Điền là người điềm tĩnh, thận trọng và thông thái. Tính
cách của Đinh Điền mô tả qua việc ông từng dạy học, đi tu và được Đinh Bộ Lĩnh
giao chức Ngoại giáp và Nhập nội kiểm giáo Đại Tư đồ, Bình chương trọng sự.
Dẹp loạn sứ quân
Lớn lên,đức ông Đinh Điền cùng Nguyễn Bặc, Lưu Cơ, Trịnh Tú theo
phò (vua) Đinh Bộ Lĩnh trấn giữ động Hoa Lư chống lại nhà Ngô, trong đó ông cùng Nguyễn
Bặc làm tướng võ, còn Lưu Cơ và Trịnh Tú làm tướng văn.
Năm 965, nhà Ngô mất. Ông cùng các danh tướng thân cận giúp (vua)Đinh Bộ Lĩnh
đánh dẹp loạn 12 sứ quân. Khi (vua) Đinh Bộ Lĩnh giao cho Đinh Điền chỉ huy quân đi
đánh dẹp các sứ quân Phạm Bạch Hổ và Lã Đường đã qua trang Đằng Man (nay là
thành phố Hưng Yên), Đinh Điền đã cho dựng đại bản doanh và chọn 3 người họ
Phan, họ Phạm và họ Nguyễn ở trang Đằng Man làm gia tướng và lấy người con gái
Phan Thị Môi ở đây làm vợ.
Đức ông Đinh Điền cũng là người chiêu mộ được nhiều tướng giỏi khác
giúp lực lượng (vua) Đinh Bộ Lĩnh mạnh lên như Kiều Mộc thiền sư Lương Tuấn (Ninh
Bình) Lê Xuân Vinh, Luận Nương ở Long Biên (Hà Nội); các vị tướng Phạm Thành,
Lưu Công, Sát Công ở Lộc Thọ; 4 anh em họ Trịnh là: Trịnh Minh, Trịnh Lương, Trịnh
Nguyên, Trịnh Khang ở Điệp Nông (Hưng Hà) và Nguyễn Phúc ở Thái Thụy (Thái
Bình).
Theo dã sử, tướng quân Đinh Điền đã giúp (vua) Đinh Bộ Lĩnh thu phục
được sứ quân của Phạm Phòng Át trấn tại Nam Sách giang và Bạch Đằng giang thuộc
đất Hồng Châu khi ấy. Sau đó, ông kéo quân về vườn Hồng Ba Đống thuộc Hải Môn
(nay là làng Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng, Bình Giang, Hải Dương) để lập căn cứ luyện
quân. Ông được triều đình ban thưởng 500 mẫu ruộng cùng nhiều trâu cày.
Theo sử sách, sau khi đánh dẹp 12 sứ quân thắng lợi. Đinh Bộ
Lĩnh lên ngôi Hoàng đế đã phong Đinh Điền giữ chức Ngoại giáp, nghĩa là coi việc
bên ngoài, theo thần phả thì ông giữ chức Nhập nội kiểm giáo Đại Tư đồ, Bình
chương trọng sự. Sau khi được triều đình ban thưởng 500 mẫu ruộng cùng nhiều
trâu cày. Ông đã quy tụ dân chúng lập lên 2 làng là Nhân Kiệt và Tuấn Kiệt
(Hùng Thắng, Bình Giang, Hải Dương) cùng nhiều làng khác bên sông Vạc thuộc hai
huyện Yên Mô và Yên Khánh tỉnh Ninh Bình.
Sống chết với nhà Đinh
Năm Kỷ Mão (979), vua Đinh Tiên Hoàng và Nam Việt Vương Đinh Liễn
bị sát hại, triều đình tôn người con còn lại của Tiên Hoàng là Vệ Vương Đinh
Toàn mới 6 tuổi lên ngôi kế vị, (vua)Lê Hoàn làm Nhiếp chính đại thần, thường ra vào
cung cấm tư thông với thái hậu Dương thị là mẹ của ấu chúa. Sau đó, Lê Hoàn lại
tự xưng là Phó Vương, mọi việc trọng sự đều do tay Lê Hoàn sắp đặt.
Đinh Điền cho rằng Thập đạo tướng quân Lê Hoàn có ý đồ thoát đoạt. Ông bàn với Nguyễn
Bặc và Phạm Hạp cùng một số trung thần khác, bỏ quan về ở ẩn để mưu tính đại sự.
Ông tập kết các anh hào, tướng sĩ trung thành với nhà Đinh để chuẩn bị đánh Lê
Hoàn.
Đinh Điền hợp quân với Nguyễn Bặc, Phạm Hạp, đem hai đạo
quân thuỷ bộ từ Ái Châu (Thanh Hoá) tiến về kinh thành Hoa Lư mưu giết vua Lê Hoàn,
thu giang sơn lại cho nhà Đinh. Nhưng (vua) Lê Hoàn lợi dụng gió đông nam thổi mạnh,
đánh một trận hoả công, đốt sạch thuyền bè, quân sĩ của Đinh Điền, Nguyễn Bặc.
Đạo thuỷ quân tan rã, tướng Đinh Điền tử trận.
Danh tướng Đinh Diền tại đền thờ Kim Đằng
Sau đó không lâu, Nguyễn Bặc và Phạm Hạp cũng bị vua Lê Hoàn
đánh bại, bị bắt và bị xử tử.
Về thời gian diễn ra trận chiến và cái chết của Đinh Điền,
các nguồn tài liệu ghi khác nhau. Sử sách thống nhất ghi việc này diễn ra vào
cuối năm 979. Theo thần phả ở Ninh Bình, việc này diễn ra ngày 20 tháng 4 năm
Canh Thìn (tức 5 tháng 6 năm 980).
Một số thần phả khác, được Từ điển các nhân vật lịch sử Việt
Nam[5] dẫn lại, cho rằng ông cùng vợ là Phan Môi Nương bị thua trận, quân tan
nát hết nên cùng nhau tự vẫn ngày 20 tháng 11 năm Kỷ Mão (tức 12 tháng 12 năm
979) chứ không phải ông bị tử trận.
Nhân dân vô cùng thương xót, coi ông là bậc trung thần, vì
nghĩa cả quên mình nên đã thu nhặt hài cốt ông đem về chùa Trúc Lâm, nơi ông tu
hành trước để an táng. Ngày nay ở rất nhiều nơi đặc biệt tại Gia Viễn, Hoa Lư
có đền thờ ông và Nguyễn Bặc.
Chính Lê Hoàn lên ngôi vẫn cảm phục Đinh Điền, sắc phong ông
làm: “Tế thế Hộ quốc Hiển ứng Linh quang Đại vương”, vợ ông là Phan Môi Nương
cũng được sắc phong là: “Huệ Hoa Gia Tĩnh Trinh Thục phu nhân”. Vua Lê Thái Tổ
sau này sắc phong cho Đinh Điền là “Thượng đẳng Vạn cổ Phúc thần Trung thánh Đại
tư đồ Bình chương sự Khai ốc Công đức Văn Đại vương”
Đền thờ, tên đường
Danh tướng Đinh Điền, Nguyễn Bặc được nhân dân nhiều nơi kính trọng tôn
thờ. Riêng thống kê của tỉnh Hà Nam Ninh cũ có tới 134 nơi thờ và phối thờ Nguyễn
Bặc, Đinh Điền. Đền vua Đinh ở Trường Yên, Gia Phương, Ba Dân (Kim Bảng) đền
vua Đinh ở Ý Yên… nơi nào cũng thờ Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Các lễ hội như cờ lau
tập trận, hội đền vua Đinh… đều diễn hình ảnh vua Đinh, Đinh Điền, Nguyễn Bặc,
xem như những người hùng tiêu biểu cho tinh thần thượng võ dân tộc.
Nhiều nơi thờ các vị thần khác mà vẫn lưu lại sự tích, có
khi thờ cả Đinh Điền, Nguyễn Bặc gắn bó với nhau, được dân địa phương sùng kính
(như các đền miếu ở huyện Yên Khánh, Ninh Bình, chùa Long Hoa ở xã Liêm Cần,
Thanh Liêm, tỉnh Hà Nam, đền chùa ở bến Vạc Ninh Bình, đình Động Phi ở Ứng Hòa
Hà Nội…). Chứng tỏ, hai vị sống thân thiết, chết lại không xa rời, trở thành
hình ảnh tâm linh hòa hợp giữa lòng ngưỡng mộ của nhân dân.
Hơn 10 đền thờ Đinh Điền ở vùng ven sông Vạc thuộc 2 huyện
Yên Mô và Yên Khánh (Ninh Bình) như: Đền Tam Thánh, Chùa Yên Lữ, Miếu Hạ, Miếu
Đông Thương ở xã Khánh An; Chùa Tháp, Chùa Phượng Ban, các đền thờ Đinh Điền ở
Khánh Dương, Khánh Thịnh cho biết Đinh Điền đã về vùng này vận động và thành lập
9 đại bản doanh từ Yên Lữ, Yên Bạc (quê ngoại của Đinh Điền) đến Xuân Dương,
Phú Mỹ, Yên Liêu, Bồ Vi, Chùa Tháp, Yên Thịnh, Văn Giáp.
Đức ông Đinh Điền được phong làm thành hoàng của nhiều làng ở miền Bắc,
đền thờ ông có ở nhiều nơi như: Ninh Bình, Hải Dương, Hà Nội, Nam Định, Thái
Bình và Hưng Yên, tiêu biểu như:
Đền Kim Đằng ở phường Lam Sơn, thành phố Hưng Yên, là nơi
Đinh Điền đã đóng quân và kết duyên cùng Phan Thị Môi.
Đình Đằng Chương ở xã Yên Tiến, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
Đình Nhân Kiệt, xã Hùng Thắng, Bình Giang Hải Dương.
Đình Tuấn Kiệt, xã Hùng Thắng, Bình Giang Hải Dương.
Đền Đinh Điền ở thị trấn Lương Bằng, huyện Kim Động, tỉnh
Hưng Yên.
Đền Tứ Trụ ở quần thể danh thắng Tràng An, Ninh Bình phối thờ
ông cùng Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ
Đền Tứ Trụ hay đình Bái ở xã Sơn Thành, Nho Quan (Ninh
Bình).
Đình Tình Quang ở xã Giang Biên, Gia Lâm, Hà Nội thờ Đinh Điền
cùng 2 vị vị Vua Lý Nam Đế và Lý Chiêu Hoàng.
Đình Lộc Thọ, xã Độc Lập, Hưng Hà, Thái Bình thờ Đinh Điền
cũng Nguyễn Bặc, Lưu Công và Sát Công.
Mộ và đền thờ tại Trúc Lâm (Yên Tử, Quảng Ninh), nơi đây là
quê mẹ của ông và cũng là nơi ông tu hành.
Cố đô Hoa Lư và đền thờ Đinh Bộ Lĩnh ở quê hương Gia Phương
(Gia Viễn, Ninh Bình) phối thờ ông cùng Vua Đinh Tiên Hoàng.
Đình Đống Xung, xã Thắng Lợi, Thường Tín, Hà Nội thờ Đinh
ngoại giáp (Đinh Điền) cùng Trần triều Hoàng hậu
Đinh Điền được đặt tên cho nhiều đường phố ở Việt Nam
Phố Đinh Điền, thành phố Hưng Yên.
Đường Đinh Điền ở thành phố Tam Điệp và thành phố Ninh Bình.
Đường Đinh Điền, thành phố Thái Bình
Đường Đinh Điền, quận Tân Bình, thành phố Hồ Chí Minh.
Quảng trường - tượng
đài Đinh Tiên Hoàng đế tại trung tâm thành phố Ninh Bình với 4 góc có tượng 4 vị
quan đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Trịnh Tú, Lưu Cơ cao 5m, có lính canh và
ngựa bằng đá.