Danh tướng Nàng Nội: Mệnh danh là nữ tướng vùng Bạch Hạc được Trưng Vương phong là Nhập Nội Bạch Hạc Thủy công chúa, Nội các trưởng quan triều Trưng.
Theo thần tích đền Minh Nông (còn có tên gọi khác là đền Kẻ
Lú), xã Minh Phương, huyện Hạc Trì (nay thuộc thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ)
thì Nàng Nội là cháu gọi Thi Sách (chồng của Trưng Trắc) bằng chú ruột.
Vì căm giận ách thống trị tàn bạo của quân đô hộ nhà Hậu
Hán, thân sinh của Nàng Nội và Thi Sách dự tính sẽ tổ chức nhân dân nổi dậy đấu
tranh, nhưng vì kế hoạch bị bại lộ nên cả hai anh em đều bị Tô Định giết hại.
Mùa đông, tháng một, trời rét buốt. Gió bấc hun hút thổi.
Ngã ba Bạch Hạc chìm trong màn mưa. Ngọn cờ đen ở trước đồn quân Hán rã xuống
như bộ lông quạ dúng nước. Bọn lính đồn co ro đi lại.
Gió bấc lạnh ngắt như luồn vào xương tủy và mưa như kim châm
buốt thân thể trần truồng dầm nước của những người dân Giao Chỉ trên sông. Tóc
bết trên gáy trên lưng, họ đứng trước mũi những chiếc thuyền nhỏ, dạng chân
quay mình nửa vòng, vung tay, quăng lưới.
Có những người trẻ tuổi, dáng khỏe mạnh, cầm lao nhảy xuống
làn nước lạnh. Cá anh vũ vẩy xám màu thiếc, tròn lẳn như cá trắm, quẫy lộn
trong lưới, cong mình trên những mũi lao nhỏ và dài. Xong mỗi mẻ lưới, thuyền
cá bơi về bến, những tên lính Hán đứng nhận cá luôn miệng quát tháo, quất roi
vun vút vào những người dân chài khốn khổ.
Gần đấy, một đám đông người đứng tụm lại với nhau, viên quan
Hán khoa chân múa tay nói gì đó với họ. Đó là những chủ thuyền và những người
thả mảng bị đồn Hán giữ lại để kiểm soát, thu thuế. Chắc hẳn có một người bất
bình đã cãi lại, vì thấy tên quan Hán lồng lộn như con gấu bị nhốt, rồi mấy tên
lính Hán túm lấy một người trong đám đông, roi gậy vụt túi bụi.
Tất cả cảnh tượng trên sông trên bến nước đồn quân Hán ấy đã
được thu vào tầm mắt của hai người cưỡi ngựa trụ trên gò Mõ Phượng : một người
đứng tuổi vạm vỡ, râu quai nón, mặc dù trời rét vẫn mở phanh ngực áo, và một cô
gái nhỏ khoảng mười hai mười ba tuổi, gương mặt tròn trĩnh đỏ hồng không biết
vì rét hay vì tức giận.
Cô gái nhỏ đặt tên, giương cung, nhưng người đứng tuổi vội nắm
tay cô gái ngăn lại : " Chớ, chớ ! Nàng Nội à, lính Hán đánh đập người
Giao Chỉ ta như thế là thường. Còn nhiều cảnh thảm khốc hơn kia. Thôi, ta đi
thôi ! ".
Cô gái nhỏ tuổi giật mạnh cương con ngựa ô bờm dày tỏa bay
như mây như khói, nói với người đứng tuổi : " Ông Thái à, em muốn đi tìm một
con trĩ hay một chú vẹt sặc sỡ nào đem về chơi, đi nhé ! ". Hai con ngựa
băm nước kiệu nhỏ, đi vào vùng rừng bên sông Lô.
Người đứng tuổi nói : " Vẹt thì có, tôi biết có một khoảnh
rừng có khá nhiều đấy, nhưng trĩ có mà lại hóa không. Trĩ, giặc Hán bắt phải nộp
hết cho chúng. Trĩ và công của rừng Bạch Hạc này là của giặc Hán ". Cô gái
nhỏ quất mạnh roi vào mông ngựa, không phải vì muốn giục ngựa phi nhanh hơn mà
vì tức bực : " Nghe ông nói, cái gì cũng là của giặc Hán ! ".
Người đứng tuổi im lặng một lúc rồi dằn giọng : " Ấy thế
đấy, cái gì cũng là giặc Hán. Đất Bạch Hạc này tuy tướng công nhà là chủ trưởng
nhưng cũng là đất của vua Hán. Không còn cái gì là của ta hết ! ".
Người con gái nhỏ không nói gì nữa, mặt đỏ bừng bừng như người
say trầu. Đường hẹp, đá mấp mô, dây rừng cuộn như khúc rắn. Hai người xuống ngựa,
buộc ngựa vào một cây kháo tàn rồi bắt đầu vào rừng.
Châu Bạch Hạc thời thuộc Hán chính là cố đô của nước Văn
Lang xưa được mở rộng sang cả bên kia sông Lô. Chủ trưởng châu là Đặng Thi Huy
một lạc tướng có danh vọng và quyền thế, em ruột Đặng Thi Sách huyện lệnh Chu
Diên và anh ruột của lạc tướng Đặng Thi Bằng.
Tuổi đã cao mới được một mụn con gái nên hai vợ chồng Đặng
tướng công nâng niu quý mến Nàng Nội không xao kể xiết. Ở trong nhà, Nàng Nội
được một nhũ mẫu cùng họ trông nom. Ra ngoài, Nàng Nội bao giờ cũng đi với một
thủ hạ thân tín của Đặng tướng công họ Hàm tên Thái, một dũng sĩ mà các đô vật
nổi tiếng trong châu đều tôn phục. Hàm Thái gan dạ và bình tĩnh nên rất được Đặng
tướng công tin cậy.
Lên tám tuổi Nàng Nội học viết, lên mười tuổi Nàng Nội học
cưỡi ngựa, mười hai tuổi bắn cung đã thạo, bắt đầu tập múa kiếm và được theo
Hàm Thái ra ngoài đôi khi được theo Đặng tướng công mở những cuộc săn lưới.
Nàng Nội thông minh và có sức khỏe, bàn tay nhỏ nhắn ấy cầm cương con ngựa ô
cũng khéo như cầm cây bút lông nhỏ để đưa những hàng chữ mềm mại và sắc như lá
lan.
Đặng Thi Huy tự hào về con gái cũng như tự hào " Bạch Hạc
của ta " như ông thường nói. Và nếu ông yêu con gái với một lòng yêu đằm
thắm thì ông cũng tha thiết gắn bó với rừng núi đất đai sông ngòi Bạch Hạc.
Nơi đây, ba dòng sông lớn Lô, Thao, Đà như ba con rồng uốn
khúc về chầu, chụm đầu vào nhau phun nước phù sa tưới tắm đất đai cố đô của các
Vua Hùng dựng nước. Đứng ở ngả ba sông mà nhìn, sau lưng là nơi mặt trời xế
bóng, núi rừng chạy dài mãi tới biên giới xa xôi, trước mắt nơi vừng đông sớm sớm
lên đường từ bể ca, mênh mông một dải đồng bằng. Non sông hùng vĩ, đất nước đẹp
giàu nay đã bị nhà Hán thống trị. Sông núi dất đai này không còn là của người
Giao Chỉ!
Xưa kia, thuở Vua Hùng dựng nước, nơi Ngã ba sông bên gò Mỏ
Phượng có một cây chiên đàn cao muôn trượng lá rợp một vùng, mây bay trên ngọn,
chim hạc làm tổ hàng nghìn con tiếng kêu như tiếng đàn, tiếng sáo. Bến Hạc Trắng
là cửa ngõ của châu thành, nơi bốn phương đổ về hội họp, người đông của nhiều,
vượng khí muôn đời không dứt.
Đối với Đặng Thi Huy, Bạch Hạc không chỉ là một châu giàu có
vào bậc nhất nhì của Giao Chỉ mà còn là một mảnh đất thiêng liêng. Tất cả các lạc
hầu lạc tướng đều không quên những đền đài cung điện cũ rải từ Ngã ba Bạch Hạc
về Thứu Lĩnh, những đền đài cung điện ấy bị kẻ thù phá hủy nhưng vẫn còn để lại
nhiều dấu tích. Đó là dấu tích thần thánh của cố đô cũ, dấu tích của dòng họ
Hùng, của các Vua Hùng mở nước Văn Lang và triều đại nhà Hùng.
Năm Nàng Nội mười ba tuổi cũng là năm Đặng Thi Huy họp cùng
Thi Sách và một số lạc hầu lạc tướng mưu lật đổ Tô Định và nền đô hộ của nhà
Hán. Đặng Thi Huy đem mọi công việc bàn với chính thất phu nhân Trương Thị Hàn,
mẹ Nàng Nội, mà ông vẫn kính trọng vì học rộng biết nhiều và trí lự sâu xa.
Đặng công được vợ giúp sức, ngầm tập hợp các lang, các trưởng
trang, trùm động có nghĩa khí trong châu. Nàng Nội biết công việc của cha làm.
Trong những ngày ra ngoài tập ngựa, đi săn, Nàng Nội mắt được thấy những cảnh
sôi lòng cháy ruột, những nỗi khổ cực của dân chúng, lại được nghe nhũ mẫu, Hàm
Thái và các cô hầu gái kể những câu chuyện về sự tàn ác của bọn quân lính Hán.
Ngọn lửa căm hờn nhen nhóm trong lòng cô gái nhỏ.
Có lần Nàng Nội giương cung bắn rụng một quả hồng treo trên
cành cao và nói với mẹ : " Con sẽ bắn rụng đầu Tô Định như bắn quả hồng
này ". Mẹ bảo con : " Nếu con cứ nói như vậy, chính Tô Định sẽ bắn rụng
đầu con đấy !". Bà cũng thường khuyên nhắc chồng phải cẩn thận kín đáo, vì
biết ông vốn tính nóng nảy và xốc nổi.
Mưu đồ của Thi Sách và nhóm khởi nghĩa bị bại lộ. Tô Định lừa
Thi Sách về Phủ thái thú và giết ngay trước tiệc. Những người dự mưu đều bị giết,
bị bắt bớ tra tấn truy nã. Có lệnh triệu Đặng Thi Huy về Luy Lâu. Đặng công khi
nhận được lệnh, chưa biết việc lớn đã lộ, vội sắm sửa lên đường.
Khi ông vừa lên ngựa, chợt có đàn quạ bay đến lượn trên đầu
ba vòng rồi sải cánh bay về phương Nam, tiếng kêu thảm thiết. Phu nhân cho là
điềm gở, níu đầu ngựa mà giữ lại. Đặng công an ủi phu nhân và cử Hàm Thái theo
mình cùng lên đường. Được ba ngày, Hàm Thái chợt về báo tin dữ, lập tức thu xếp
đưa phu nhân cùng Nàng Nội trốn ngay đêm hôm đó.
Mờ sáng hôm sau, viên thừa sai của Phủ thái thú và viên huyện
úy Mê Linh đem lính về vây kín châu sở, thi hành lệnh của Tô Định tịch thu toàn
bộ sản nghiệp Đặng Thi Huy, bắt các gia nô và nữ tì sung công, các gia tướng và
lại viên của Đặng công đều bị bắt. Lại có lệnh truy nã các người họ Đặng. Đàn
ông trong châu bất cứ già trẻ lớn bé mang họ Đặng đều bị giết.
Tô Định không cho lệnh truy nã Đặng phu nhân và Nàng Nội vì
nhà Hán trọng nam khinh nữ, coi đàn bà con gái như không. Một viên quan Hán được
cử về làm chủ châu. Châu Bạch Hạc náo động. Dân chúng bị giặc Hán thừa dịp bóc
lột, khảo của vơ vét tàn bạo. Người họ Đặng đi trốn đều phải thay tên đổi họ.
Năm ấy, Nàng Nội đã mười tám tuổi.
Bên hữu ngạn sông Lộ có mười sáu động nhà sàn thuộc châu Bạch
Hạc ở sâu trong vùng núi, mẹ con Nàng Nội nương náu ở đó. Mặc dầu giặc không có
lệnh truy nã, nhưng nếu chúng bắt được hai mẹ con, chắc chắn sẽ bị đưa nộp Tô Định
làm tì thiếp.
Ẩn mình nơi rừng xa núi thẳm, Đặng phu nhân không nguôi nghĩ
ngợi, uất ức mà sinh bệnh nặng, nằm liệt giường. Nàng Nội và nhũ mẫu cùng Hàm
Thái ngày đêm trông nom, thuốc thang phụng dưỡng, nhưng bệnh của phu nhân là
tâm bệnh, thuốc nào chữa nổi. Một năm sau phu nhân qua đời.
Chôn cất phu nhân xong, Nàng Nội nói với nhũ mẫu và Hàm Thái
: " Cha mẹ ta đều chết vì giặc Hán. Thù cha mẹ không trả nổi còn sống làm
gì. Ta phải đi tìm Tô Định ! ".
Hàm Thái nói : " Một mình Nàng giết sao được Tô Định. Vả
lại gánh lấy việc nghĩa cứu vớt dân Giao Chỉ ra khỏi vòng nước lửa, giành lại
cơ nghiệp giang san của tổ tiên, làm cho vẹn chí lớn của cha mẹ, đó mới là cách
xử sự của người con có hiếu ". Nhũ mẫu cũng khuyên giải Nàng Nội hồi lâu rồi
ba người cùng nhau bàn việc. Sau đó, Hàm Thái chào Nàng Nội và nhũ mẫu, lên đường.
Nàng Nội chia tay Hàm Thái, nói : " Tai mắt kẻ thù của chúng ta ở khắp
nơi, tráng sĩ hãy giữ mình cẩn thận ".
Một đêm, Nàng Nội ngồi trên sàn thêu khăn cùng vài người con
gái bản, nhìn ra ngoài, trăng suông rải khắp núi rừng, sương khói mờ mờ, lại
nghe từ xa vọng về tiếng hưu giác và tiếng suối đổ, lòng thêm ngổn ngang trăm mối.
Chợt nhũ mẫu và Hàm Thái bước lên sàn. Nàng Nội mừng rỡ têm trầu rót nước, cùng
nói chuyện. Hàm Thái mời Nàng Nội cùng theo mình, những người con gái bản cũng
đứng dậy, cùng đi.
Trăng non như vành lược bạc gài trên mây, ngôi sao Vượt sáng
long lanh đứng chếch ở phía dưới, chùm sao Gấu lớn nằm ngang trên ngọn núi. Qua
một khe nước thấy có ánh lửa, Nàng Nội bước tới. Có hơn mười người ngồi quanh đống
lửa đều đứng dậy vòng tay chào, con gái thì chắp tay. Nàng Nội nhìn quanh một
lượt, nhận ra là một vài người trong họ, các gia tướng và nữ tì của nhà, lòng cảm
động, ôm lấy nhũ mẫu bật khóc, mọi người đều cất lời an ủi.
Hàm Thái nói : " Nữ chủ chúng ta tuy còn ít tuổi nhưng
là người có học nhiều, có khí phách dũng lược, có thể thay kế tướng công mà dắt
dẫn chúng ta. Nay tướng công và phu nhân đều bị giặc hãm hại, việc nghĩa giữa
đường bỏ dở.
Họ hàng chúng ta cũng bị giặc tàn hại, thân chúng ta bị giặc
đày đọa. Ta phải cứu lấy gia đình, làng xóm, họ hàng máu mủ ta. Chúng ta quyết
đi với nữ chủ chống lại giặc Hán ". Mọi người đều đồng tình, Hàm Thái hai
tay trao kiếm cho Nàng Nội nói rằng : Đây là kiếm báu của tướng công. Khi tướng
công bị giặc hãm hại, người của ta lấy được kiếm, truyền cho hạ nô, bấy lâu nay
hạ nô vẫn cất giấu kín đáo. Xin nữ chủ nhận kiếm.
Nàng Nội người nóng bừng bừng, đôi mắt long lanh, đỡ lấy kiếm
tuốt ra khỏi vỏ. Trước ánh lửa, kiếm lòe sáng. Nàng Nội đưa mắt nhìn Hàm Thái,
thấy Hàm Thái gương mặt như đúc bằng đồng, cặp mắt cháy rực chăm chú nhìn mình.
Nhũ mẫu và mọi người cũng đều nghiêm trang nhìn Nàng Nội.
Nàng Nội giơ kiếm ngang mặt mà thề rằng : " Kiếm này quyết tắm máu kẻ thù
! ". Mọi người đồng thanh tuyên thề: " Quyết tắm máu kẻ thù ! ".
Lửa bập bùng nhảy múa. Rừng nổi gió ào ào. Trong xa vắng
mênh mông, tiếng nước đổ đâu đó ầm ầm như trống trận.
Sông nước Bạch Hạc cuộn sóng. Đất Bạch Hạc cựa mình. Dân Bạch
Hạc vùng dậy. Người già bảo người trẻ, con trai con gái nói với nhau : " Cực
khổ lắm rồi. Chúng ta hãy đi theo Nàng Nội đánh đuổi giặc Hán ! ".
Người đi xâu rủ nhau trốn từng đoàn, bỏ đấy những việc đắp
lũy dựng dinh trại cho viên chủ trưởng Hán, bỏ đấy việc đắp đường cho giặc
chuyên chở cống phẩm, bỏ đấy việc xây dựng đại đồn cho giặc. Mùa thu, những quả
hồng Hạc ngọt nắng không chịu nép mình yên phận trong những chiếc sọt đan giấy
đề chữ " cống " to tướng. Mùa đông cá anh vũ quẫy mình dưới nước và
người dân chài nói với giặc : " Bắt mãi cá nó bỏ đi hết rồi ! ".
Gươm giáo chạm nhau xoang xoảng trước các trại quân Hán.
Khiên dập vào khiên, tóe lửa. Tù và rúc, mõ và trống nổi lên, lửa đuốc bay dài
trong gió. Đêm, Bạch Hạc cháy đỏ, bừng bừng sát khí.
Cho tới một đêm, đại đồn Hán ở Gò Mai ngùn ngụt lửa. Trong
ánh lửa hiện ra trước những cặp mắt kinh hoàng của giặc một người con gái uy
nghi lộng lẫy như một vị nữ thần bay đến trên một chiếc ngựa ô có bộ bờm tỏa rộng
vần vụ như mây bão.
Người con gái có gương mặt tròn hồng tươi như hoa sen, đôi mắt
long lanh, ngực mang yếm thắm ngoài bọc hộ tâm kính bằng đồng, tay sử một lưỡi
kiếm sáng quắc như tia chớp. Đó, " nữ thần Bạch Hạc " theo như lính
Hán đóng ở châu thường gọi. Nổi khủng khiếp của giặc, tai họa trời giáng xuống
đầu bọn giặc ở châu Bạch Hạc.
Tin nữ tướng họ Đặng mà dân chúng và chính quân lính Hán ở Bạch
Hạc đều gọi tôn là " nữ thần " đã làm rung động cả châu và dám đánh
phá đại đồn, chém chết viên châu úy trấn đồn, tin đó đưa về tới Phủ thái thú
làm Tô Định đùng đùng nổi giận.
Y truyền thư khiển trách trưởng châu và cử ngay viên đề đốc
Hoàng Sùng Chính võ quan Phủ thái thú về Bạch Hạc đánh dẹp. Hoàng Sùng Chính là
một mãnh tướng trước đã từng theo Hán Quang Vũ đi bình quân Ngỗi Ngao. Hoàng có
sức khỏe múa được thanh đại đao nặng bốn mươi hai cân. Tô Định thường nói :
" Hoàng đề đốc là thần tướng của ta ". Nay y phải cử Hoàng đi bình
châu Bạch Hạc, đủ biết y cũng không dám coi thường người con gái họ Đặng.
Hoàng Sùng Chính được lệnh, nói rằng : " Con tướng đàn
bà ấy có gì đáng cho quan thái thú phải lo ngại ! Hoàng này về tới châu, chúng
nghe tiếng ắt phải tự trói mình đến cửa quân chịu tội ", bèn điều ngay
quân đi. Về châu mười ngày, cả châu yên tĩnh.
Viên đề đốc Hoàng lại càng muôn phần tự đắc, cho rằng "
giặc cỏ " sợ uy mình đã lẩn trốn hết, mới nói với trưởng châu để cho quân
rút. Trưởng châu tiễn Hoàng ở bến sông, rót rượu mừng. Chợt vừa lúc đó, tên bắn
tới như mưa, tiếng hò reo vang dậy, các tráng sĩ núi rừng phóng ngựa ập tới.
Một nữ chiến binh mặt tròn trĩnh cưỡi con ngựa đen vút tới
như gió, nhát gươm như chớp giật chém cụt ngay đao của Hoàng, nhát thứ hai xả
Hoàng làm hai mảnh đổ gục xuống chân ngựa. Quân Hán tan vỡ, viên trưởng châu cởi
áo bỏ mũ chạy theo dọc sông, trốn thoát được về với Tô Định.
Nàng Nội chém xong Hoàng Sùng Chính, lên ngôi chủ trưởng
châu Bạch Hạc, uy danh rung động cả các châu huyện đất Giao Chỉ, hào kiệt các
nơi cũng nhân đó theo gương mà nổi dậy. Tô Định lúng túng bị động đối phó, còn
các đồn trại Hán thì run sợ, cố thủ, từ quan tới lính mỗi khi phải điều đi đánh
dẹp đều nhớn nhác như gà con thấy bóng diều hâu.
Vương nữ Trưng Trắc dựng cờ đại nghĩa, cả nước đều theo về.
Huyện Mê Linh hào kiệt tuốt gươm xua giặc sạch quang. Trưng Nhị về Bạch Hạc
cùng với Nàng Nội xây dựng đồn trại, luyện tập nghĩa quân.
Mồng sáu tháng Giêng năm Canh Tý, Trưng chúa đem quân về tế
tổ tiên ở núi Thứu Lĩnh, mồng bẩy điểm quân ở bãi Trường Sa, mồng tám, phong nàng
Nội làm Nội các văn thư trưởng quan, đặc trách việc tiếp nhận báo cáo thư từ,
thảo soạn giấy tờ, tham gia dự bàn việc quân cơ, việc quản châu giao cho Hàm
Thái đảm nhiệm.
Trưng nữ vương hội quân ở Hát Môn phát động nhân dân cả nước
khởi nghĩa đuổi giặc Hán, lật đổ ách thống trị gần hai trăm năm của ngoại tộc.
Bình xong giặc, lên ngôi vua, Trưng vương phong cho các tướng, Nàng Nội nhận tước
phong Nhập nội Bạch Hạc Thủy công chúa.
Mã Viện sang đánh chiếm nước ta, Vua Trưng cử Nàng Nội về cự
giặc ở ngã ba Bạch Hạc.
Khi Mã Viện đem quân sang đàn áp, Nàng Nội là tướng chỉ huy
quân đội của Trưng Nữ Vương ở khu vực Bạch Hạc. Danh tướng vùng Bạch Hạc chiến
đấu rất ngoan cường, đánh cho giặc tổn thất nặng nề. Nhưng binh mỏng, lại không
có nhiều kinh nghiệm chinh chiến, đành tử chiến để đền nợ nước. Nhập Nội Bạch Hạc
Thủy Công chúa anh dũng hi sinh tại Bạch Hạc lúc tuổi đời mới vừa đôi mươi.
Để mãi mãi tôn vinh và ghi nhớ công đức to lớn của Bà, nhân
dân địa phương đã cùng nhau lập đền thờ Bà tại Minh Nông.
1. Nàng Nội và cha mẹ đều được thờ ở xã Minh Nông và xã Minh
Phương, huyện Hạc Trí nay là thành phố Việt Trì. Ở đây còn có một cánh đồng có
tên là Đồng Cô, nhân dân nói rằng đó là ruộng của Nàng Nội giao cho dân làng để
thu hoa lợi thờ cúng cha mẹ nàng.