Danh tướng Nguyễn Tam Trinh, Tổ sư lò vật Mai Động, dũng tướng của cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng (có tài liệu gọi là Triệu Tam Trinh) chức phong Đô úy, tước Liệt hầu.
Sinh ra vào những năm đầu công nguyên tại huyện Đông Sơn,
Thanh Hóa, Nguyễn Tam Trinh nổi tiếng khắp làng với thể hình to lớn,
sức khỏe hơn người mà còn có đam mê võ thuật. Ngay từ khi con nhỏ, Tam Chinh cố
gắng học tập và rèn luyện võ thuật để có thể phụng sự đất nước sau này.
Sau khi thành tài ở lò vật, với vốn chữ nghĩa của
mình, Nguyễn Tam Trinh đã du ngoại ra Bắc để có thể ngắm nhìn sơn thủy.
Cuối cùng, ông dừng chân tại hương Cổ Mai (trong đó có làng Mai Động ngày
nay). Nơi đây cảnh đẹp, người dân hiền lành chân chất nhưng lại nghèo vì không
có nghề gì ngoài cày cấy.
Nhìn thấy cảnh người dân khổ sở vậy ông cảm thấy không yên
lòng. Ông đã dựng nhà bên sông Kim Ngưu rồi mở trường dạy văn dạy võ không công
cho người dân địa phương. Thanh niên theo ông học rất đông. Không chỉ dạy
văn và võ, ông còn dạy cho người dân cách làm đậu phụ, giúp cho cuộc sống họ đỡ
cơ cực hơn. Ông được bầu làm Châu trưởng.
Mùa xuân năm 40, Nhị vua Hai Bà Trưng truyền hịch kêu gọi mọi
người đứng lên bảo vệ đất nước trước giặc Tô Địch tàn ác. Nguyễn Tam Trinh
liền chiêu mộ được 3000 dân binh, trong đó rất nhiều binh sĩ là học trò của ông
thẳng tiến ra Hát Môn ra mắt Nhị Vương Bà.
Bà Trưng Trắc phong ông chức Đô úy cầm quân tiến đánh Luy
Lâu (nay thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh), Đội dân binh cùng ông chiến đấu dũng cảm,
phối hợp với các cánh quân khác hạ được thành. Khi Hai Bà lên ngôi vua, ông được
phong tước hầu và giữ chức Phụ chính đại thần.
Năm 42, vua Đông Hán sai Mã Viện kéo đại quân
sang đánh, mùa hè năm 43 đã đến Cổ Loa. Trước thế giặc mạnh,
quân của Đô úy Tam Trinh lui về Mai Động đào hào đắp lũy chống giặc. Không lâu
sau khi Hai Bà Trưng tuẫn tiết ở Hát Môn, quân Đô úy Tam Trinh sau nhiều trận
đánh quyết liệt cũng binh cùng lực kiệt. Danh tướng Tam Trinh ngửa mặt lên
trời mà than rằng: “Than ôi ! Cơ đồ vua Trưng đã mất, nên bầy tôi cũng chỉ
có về trời !“.
Nói xong, ông bèn cưỡi ngựa lên núi mà mất. Theo thần tích ở
Mai Động, ông chiến đấu vô cùng dũng cảm và hy sinh ngày 10 tháng 2 năm Quý Mão
(43).
Vô cùng thương tiếc ông, người Mai Động đã dựng đền thờ và
tôn ông lên làm Thành hoàng làng và là tổ sư của nghề vật.
Theo nhiều thông tin truyền khẩu thì Nghè, Đình Mai Động được
xây dựng vào thế kỉ 15-17. Di tích hiện bảo tồn nhiều hiện vật niên đại thế kỉ
17 như tấm bia Triệu Mai Đình khắc năm thứ 20 niên hiệu Chính Hòa (1699), bia hậu
thần bi kí dựng năm thứ 2 niên hiệu Vĩnh Thịnh (1719). Nghè, Đình Mai Động
được xây dựng ở cạnh nhau. Tương truyền nền đình trước kia là nơi học trò của
ông tập luyện võ nghệ, nghè là nơi ở của ông sau khi đánh đuổi thái thú Tô Định.
Tam quan ngoài đình Mai Động
Sau này các lò vật tôn vinh ngài là tổ nghề. Vua Lê Đại
Hành (941—1005) đã sắc phong ngài là Nam Sơn Tam Trinh Đại vương. Đến thế kỷ 17
làng Mai Động dựng đình thờ ngài làm thành hoàng làng. Năm 1980, Bộ Văn hóa và
Thông tin đã xếp hạng đình và Nghè, Đình Mai Động là Di tích lịch sử kiến trúc
quốc gia, lại cấp một phần kinh phí để bảo tồn và tôn tạo.
Năm 1990, con đường lớn nằm dọc sông Kim Ngưu đã được UBND
TP Hà Nội đặt tên là phố Tam Trinh. Để tưởng nhớ những công lao người anh hùng
Nguyễn Tam Trinh
Theo sử sách ghi chép lại thì nghè Mai Động là nơi Tam Trinh
từng ngự, phía trước có giếng Ngọc để ngài cùng quân sĩ tắm mát. Nghè được dựng
lại vào năm Duy Tân thứ 10 (1916) với tiền tế 5 gian và hậu cung 2 gian, quay
hướng tây-bắc, bố cục hình “chữ Tam”.
Nghè, Đình Mai Động quay hướng đông nam, ngoài có
cổng, sân rồi đến tòa đại đình 5 gian, ông muống 6 gian nối đại đình với hậu
cung. Song song với ống muống còn có hai dãy tả, hữu vu làm nơi đặt bia và hội
họp.
Cạnh nghè là chùa Mai Động, tên chữ Thiện Khánh Tự, mới được
trùng tu khang trang với qui mô khá bề thế. Trong chùa hiện lưu được tấm bia
niên hiệu Vĩnh Trị thứ 5 (1680) cho biết lịch sử vùng đất Mai Động và quá trình
trùng tu lại chùa Thiện Khánh cũng gắn với công tích của quận chúa Trịnh Thị Ngọc
Sanh. Trong chùa còn có pho tượng của bà và của người em là Trịnh Thị Ngọc Nhị,
ngoài ra cũng xây thêm Điện Mẫu.
Tam quan ngoài đình Mai Động
Sân nghè Mai Động. Ảnh ©2015 NCCong
Đình Mai Động, nơi thờ vị Đô Úy Nguyễn Tam Trinh
Bên trong đình Mai động ngày nay
Truyền thuyết kể lại ông tổ môn Vật của phường Mai Động, Hai Bà Trưng, Hà Nội ngày nay là Nguyễn Tam Trinh, vị Đô Úy dưới trướng Hai Bà Trưng vào thế kỷ I.
Đình Mai Động tọa lạc cách chùa làng chừng 200m, quay về hướng
đông-nam và xây lớn hơn nghè. Nghi môn gồm 4 trụ biểu nhìn ra một gốc đa to và
hồ nhỏ hình chữ nhật, ngoài cổng có tượng đôi voi chầu, mới thay cho sư tử đá.
Toà tiền tế rộng 5 gian, cửa bức bàn, thềm cao 5 bậc, đầu
hàng hiên có tượng hai vị Hộ pháp đối diện nhau. Tiếp theo là thiêu hương 6
gian nối với hậu cung. Hai bên sân có nhà tả, hữu mạc 3 gian, cũng cửa bức bàn.
Tương truyền nền đình là nơi luyện võ của các học trò Tam
Trinh. Do quá trình đô thị hoá, đình nay bị vây sát bởi nhiều nhà dân.
Trong đình hiện có bộ kiệu long ngai còn khá nguyên vẹn và đẹp
đẽ, mang niên đại khoảng thế kỷ 18. Đặc biệt có 5 tấm bia đá chép về làng cổ
Mai Động và tên những người có công đóng góp xây dựng, tôn tạo ngôi đình.
Tấm bia Triệu Mai Đình dựng năm Chính Hoà thứ 20 (1699) cho
biết khá đầy đủ lịch sử lâu đời của vùng đất này, theo đó vào thời Lê trung
hưng, ngôi đình được quận chúa Trịnh Thị Ngọc Sanh, hiệu Diệu Kính, quê ốc Biện
Thượng, xã Sóc Sơn, huyện Vĩnh Lộc, xứ Thanh Hoá cho xây dựng. Ngoài ra còn giữ
được 28 đạo sắc phong từ đời Vĩnh Tộ (1622) cho đến các đời vua của nhà Nguyễn.
Có một đôi câu đối ở đình ghi:
“Đức bác thánh văn truyền Việt địa
Uy dương thần vũ chấn Nam thiên”
Tạm dịch:
“Văn thánh đức cao truyền đất Việt
Võ thần oai mạnh động trời Nam”
Hội vật Mai Động
Hội làng Mai Động được
tổ chức hàng năm tại sân đình vào ngày 4, 5, 6 tháng Giêng âm lịch, cạnh đó có
mở sới vật với khoảng một trăm đô từ các nơi về dự. Trước kia, sau lễ rước kiệu
và tế cáo yết thành hoàng thì các cuộc đấu bắt đầu diễn ra trên gò Đống Vật. Từ
khi làng đô thị hóa, phần lớn người xem không thể vào sân mà phải đứng ngoài
ngõ nghe tường thuật qua loa phóng thanh.