Phạm Cự Lạng (chữ Hán: 范巨倆, hay còn gọi là Phạm Cự Lượng 范巨量; 944 – 984) là danh tướng đời Đinh Tiên Hoàng và được Lê Đại Hành phong cho đến chức Thái úy.
Ông là người có vai trò rất quan trọng trong binh biến đưa
Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế và Chiến tranh chống xâm lược Tống của Đại Cồ Việt
năm 981. Ông được sử sách Trung Hoa liệt vào danh sách "Giao Châu thất
hùng", tức 7 anh hùng người Giao Châu gồm: Đinh Bộ Lĩnh, Đinh Liễn, Lê
Hoàn, Đinh Điền, Nguyễn Bặc, Phạm Hạp và Phạm Cự Lượng.
Tượng thờ danh tướng Phạm Cư Lạng đền Lương Sử.
Phạm Cự Lạng sinh ngày 20 tháng 11 năm Giáp Thìn (tức 8
tháng 12 năm 944), người làng Trà Hương, Khúc Giang (nay thuộc Nam Sách, Hải
Dương), trong một gia đình có truyền thống võ nghệ.
Ông nội là Phạm Lệnh Công, giữ chức Đông giáp tướng quân đời
Ngô Quyền. Cha là Phạm Mạn, làm tham chính đô đốc đời Ngô Nam Tấn vương (Xương
Văn), mẹ là Trần Thị Hồng. Ông bà có tám người con, 5 trai, 3 gái đều hiển đạt.
Ngay từ nhỏ đức ông Phạm Cự Lạng đã tỏ rõ tư chất thông
minh, có chí lớn, văn võ đều thấu hiểu. Ông thường cùng anh cả là Phạm Hạp đem
tiền của chiêu dụ mọi người, mua ngựa luyện quân.
Phò trợ nhà Đinh
Khi vua Đinh Bộ Lĩnh dấy binh dẹp loạn 12 sứ quân, Phạm Cự Lạng
cùng Phạm Hạp đem hơn 2000 người, ngựa từ quê đến Hoa Lư phò Đinh Bộ Lĩnh. Phạm
Cự Lượng trở thành tướng nhà Đinh, được phong chức Phòng Ngự sứ Tiên phong Tướng
quân ra giữ cửa biển Đại Ác.
Năm Mậu Thìn (968), dẹp xong loạn 12 sứ quân, vua Đinh Bộ
Lĩnh lên ngôi Hoàng đế, tức là Đinh Tiên Hoàng, đặt Quốc hiệu là Đại Cồ Việt,
đóng đô ở Hoa Lư. Phạm Cự Lượng được phong Tâm phúc Tướng quân coi việc Thị vệ
Quan thân cận của vua.
Phò trợ nhà Lê
Năm 979, vua Đinh và Nam Việt vương Liễn bị sát hại, Vệ
vương Đinh Toàn mới 6 tuổi được lập lên ngôi. Các đại thần Đinh Điền, Nguyễn Bặc
và anh Phạm Cự Lạng là Phạm Hạp thấy uy quyền của Phó vương Lê Hoàn quá lớn bèn
khởi binh chống vua Lê Hoàn nhưng cả ba tướng nhanh chóng bị Lê Hoàn dẹp tan.
Tướng Phạm Hạp bị vua Lê Hoàn xử tử. Nhưng tướng Phạm Cự Lạng
vẫn được vua Lê Hoàn tin dùng làm tướng dưới quyền.
Năm sau, nhà Tống nhân lúc nước Đại Cồ Việt rối ren, liền nảy
ý đồ đánh chiếm, sai quan trấn thủ Ung Châu Hầu Nhân Bảo cùng các tướng Tôn
Toàn Hưng, Vương Soạn, Triệu Phụng Huân, đem quân theo hai đường thủy bộ vào
xâm lược.
Tình thế Đại Cồ Việt vô cùng nguy cấp. Tháng 7 năm ấy, Thái
hậu Dương Vân Nga phong Phạm Cự Lạng làm Đại tướng tiên phong đem quân đi chống
giặc. Trước lúc tiến quân, Phạm Cự Lạng hội quân sĩ ở cửa Đào Lâm (nay là thôn
Đào Lâm, xã Gia Thắng, huyện Gia Viễn), nói rằng:
"Có công thì thưởng, có tội thì phạt vẫn là lẽ dùng
binh. Bây giờ quân giặc sắp vào cõi mà chúa thượng hãy còn thơ ấu, chúng ta có
chút công trạng thì ai biết cho... Chẳng bằng nay ta tôn Thập Đạo Tướng quân
lên ngôi Thiên tử đã, rồi sau sẽ xuất quân."
Quân sĩ nghe nói đều hô vang vạn tuế.
Trong “Việt sử tiêu án” của Ngô Thời Sĩ có những câu phê
phán tướng Phạm Cự Lượng khi không tận trung với nhà Đinh như sau:
“Bặc – Điền vì nước liều mình,
Cớ sao Cự Lượng tán thành mưu gian”.
Đánh Tống, bình Chiêm
Lê Hoàn lên ngôi Hoàng đế, Phạm Cự Lạng được phong làm Thái
úy. Cuối mùa xuân năm Tân Tỵ (981), mọi mũi tiến quân của quân Tống đều bị quân
Đại Cồ Việt phá, tướng Tống là Hầu Nhân Bảo chết trận, quá nửa quân Tống bị diệt,
buộc vua Tống xuống chiếu lui quân.
Năm Nhâm Ngọ (982), Phạm Cự Lạng được cử cầm quân đánh Chiêm
Thành để trả đũa việc vua Chiêm vô cớ bắt sứ giả Đại Cồ Việt.
Thời bình làm quan vì
nước
Mùa thu năm Quý Mùi (983), Phạm Cự Lạng được vua tin trao trọng
trách đi khai sông mới từ Đồng Cổ đến Bà Hòa (tức từ Đan Nê, Yên Định đến Đồng
Hòa, Tĩnh Gia Thanh Hoá ngày nay). Trên đắp thành đường lớn, dưới khai thành
sông lớn để lưu thông thủy bộ. Cũng trong năm này, Phạm Cự Lạng còn chỉ huy đào
cảng Đa Cái ở Hoan Châu (tức Hương Cái, Hưng Nguyên, Nghệ An ngày nay).
Ngày 12 tháng 9 năm Giáp Thân (tức 9 tháng 10 năm 984), Phạm
Cự Lạng mắc bệnh sốt rét, mất tại Đồng Cổ, nơi ông đang làm việc, hưởng dương 41
tuổi. Nhà vua thương tiếc sai người đem tướng cữu hồi kinh, an táng tại phía
nam Bồ Sơn.
Đình đền thờ phụng
Ghi nhớ công ơn Phạm Cự Lạng ở Đồng Cổ và Đa Cái hiện còn đền
thờ ông. Tại kinh đô Thăng Long (Hà Nội), đời cháu ngoại Lê Đại Hành là vua Lý
Thái Tông (1028-1054) giao cho Bộ Lễ viết sắc phong: "Thần Phạm Cự Lạng
làm Hoằng Thánh Đại Vương" (sau vì kiêng húy đổi thành Hồng Thánh) chuyên
xét việc hình ngục, thờ tại đền Ngự sử (nay là đền Lương Sử thuộc khu Văn Miếu-Quốc
Tử Giám Hà Nội).
Tại Hưng Lộc (Nghĩa Hưng - Nam Định) cũng có đền thờ Phạm Cự
Lạng ghi lại sự tích tương tự như đền thờ Lương Sử (Hà Nội). Tại thị trấn Yên
Ninh (Yên Khánh, Ninh Bình) ông được thờ ở nhà thờ thái úy cùng với mộ táng của
ông tại nghĩa trang làng Đa, xã Khánh Ninh gần đó.
Qua cuộc khảo sát và nghiên cứu gần đây, Sở Văn hóa, Thể
thao và Du lịch tỉnh Thái Nguyên đã phát hiện 4 di tích lịch sử văn hóa thờ
danh nhân Phạm Cự Lạng. Đó là các di tích: đình Đoài thuộc xóm Ngói, xã Hà
Châu, huyện Phú Bình, đình Hoàng Đàm, xóm Hoàng Đàm, xã Nam Tiến, đình Thượng
Giã, xã Thuận Thành, nghè thôn Nam Đô, làng Đông Cao, huyện Phổ Yên.