Sử Trung Hoa có ghi nhận về một vị nữ tướng nước Nam là: “Phép tắc vô cùng, một tay nhổ núi Nga mi, một tay nhổ núi Thái sơn, đánh quân Hán chết, xác lấp sông Trường Giang, hồ Ðộng Đình, oán khí bốc lên tới trời”. Danh tướng này là Phật Nguyệt công chúa, Thao Giang Tả tướng Thủy quân.
Cuốn ngọc phả “Trưng nữ vương triều công thần nhất vi âm phù, nhất
vi đại vương Ngọc phả cổ lục” còn được lưu giữ ở làng Vũ Ẻn, Thanh Ba, Phú Thọ
có ghi chép về thân thế và chiến công của vị nữ tướng này.
Ở làng Vũ Ẻn, Thanh Ba, Phú Thọ có hai vợ chồng ông Đinh Bôn và bà
Phí Vang hành nghề bốc thuốc gia truyền. Năm 23 sau Công Nguyên, hai vợ
chồng sinh được người con gái đặt tên là Đinh Phật Nguyệt, tên lót được ghép từ
chữ đầu họ Đinh (仃) của cha với chữ sau họ Phí (沸) của mẹ mà
thành chữ Phật (佛).
Thuở nhỏ Phật Nguyệt được học chữ nghĩa, sống bằng nghề chài lưới và
đam mê cung kiếm. Lớn lên trong cảnh dân tộc bị áp bức bởi nhà Hán, Phật Nguyệt
cùng các trai tráng mộ quân ở các vùng lân cận, thành lập được một đội thủy
quân đánh thắng quân Hán nhiều trận lớn.
Lúc này khắp các châu quận đều có các cuộc khởi nghĩa. Để tập hợp
các cuộc khởi nghĩa lại thành một nhằm có được sức mạnh to lớn, cuối năm 39
SCN, Hai Bà Trưng hiệu triệu thủ lĩnh các cuộc khởi nghĩa. Thủ lĩnh khắp nơi nô
nức quy tụ về.
Năm 40 SCN, Phật Nguyệt đưa 2.000 quân về với Hai Bà Trưng và được
phong là Tả tướng thủy quân.
Đánh đuổi quân Hán đến tận biên giới hồ Động Đình
Hai Bà Trưng tổ chức đại hội quân sĩ ở Hát môn, rồi chia quân tiến
đánh các nơi. Phật Nguyệt được giao trấn giữ vùng sông Thao, ngăn không cho
quân Hán tiến về xuôi. Nữ tướng cho một nửa số quân đóng ở phủ Lâm Thao,
một nửa trấn giữ phía Tây sông Thao, hai cánh quân có thể hiệp trợ lẫn nhau.
Nhiều cuộc chiến đã diễn ra nơi sông Thao, quân của Phật Nguyệt
thắng lớn, quân Hán phải tháo chạy. Sau đó Phật Nguyệt cho quân tiến đánh các
nơi, cùng với các thủ lĩnh khác chiếm lại 65 thành trì của tất cả các châu
quận. Trong cuộc khởi nghĩa chống Tô Định, Phật Nguyệt được phong là Thao giang
thượng, tả tướng thủy quân. Nàng lập nhiều công lớn nên khi bình xong giặc được
phong là công chúa.
Bản đồ nước Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng, phía Bắc đến Động Đình Hồ,
phía Tây đến Bồ Lăng (Ba Thục). (Ảnh: Wikipedia)
Quân Hán của Thái tú Tô Định phải bỏ chạy thẳng về nước. Nữ
tướng Phật Nguyệt nhận lệnh truy kích quân của Tô Định đến tận vùng biên giới
là hồ Động Đình. Vậy nên biên giới phía Bắc thời Hai Bà Trưng lên đến tận hồ
Động Đình. Hồ này ở giữa hai tỉnh Hồ Nam và Hồ Bắc của Trung Quốc. Lãnh thổ
Lĩnh Nam thời Hai Bà Trưng gồm rất nhiều các tỉnh của Trung Quốc ngày nay như
Quảng Đông, Quảng Tây, Chiết Giang, Qúy Châu, Phúc Kiến, Giang Tây, Vân Nam, Hồ
Nam v.v…
Trưng Trắc lên ngôi Vua, đặt tên nước là Lĩnh Nam (tức phía Nam núi
Ngũ Lĩnh), Phật Nguyệt được phong làm trấn thủ vùng Động Đình, ngăn không cho
quân Hán xâm phạm nơi biên giới phía Bắc.
Nhị Vua Bà ban cho Phật Nguyệt công chúa làng Yển làm thực ấp, Phật
Nguyệt công chúa mở bến mở chợ, từ đó Yển trở nên một nơi sầm uất đông vui.
Theo lệnh của Vua Trưng, Phật Nguyệt công chúa cùng các tuỳ tướng đi
tìm đất hiểm yếu để lập đồn trại, mới vào vùng đất giữa, trang Thanh Cù nghỉ
lại đêm ở một toà miếu nhỏ. Hôm sau, Phật Nguyệt công chúa chọn tuyển ở trang
Thanh Cừ mười lăm người làm bộ hạ, lại bàn với các cụ sửa lại ổ miếu, cử người
trông nom đèn nhang. Phật Nguyệt công chúa đặt ở đấy một đồn quân gọi là đồn Gò
Voi. Phật Nguyệt lại cho đào một con ngòi từ Yển vào Thanh Cù gọi là ngòi Cài
để tiện việc đi lại.
Vị nữ tướng khiến quân Hán kinh hồn bạt vía
Năm 42 SCN, vua Hán cho viên tướng kinh nghiệm và tài giỏi bậc nhất
của mình là Phục Ba tướng quân Mã Viện tiến đánh Lĩnh Nam. Mã Viện đưa quân
tinh nhuệ cùng phó tướng Lưu Long tiến đánh Lĩnh Nam.
Đến biên giới, Mã Viện đụng phải nữ tướng Phật Nguyệt, quân Hán bị
thảm bại. Những trận đánh ở hồ Động Đình khiến quân Hán thây chất ngổn ngang
khắp nơi. Không chỉ Mã Viện bị thất bại mà viện binh 28 viên tướng của nhà Hán
(gọi là nhị thập bát tú) cũng không qua được Động Đình hồ.
Nữ tướng Phật Nguyệt, được Trưng Vương
phong làm Phật Nguyệt công chúa, giữ chức Thao Giang Thượng tả tướng thuỷ quân,
Chinh Bắc đại tướng quân, tổng trấn khu hồ Động Đình - Trường Sa. Bà có trận
đánh kinh hồn chiến thắng Mã Viện, Lưu Long và Đoàn Chí ở hồ Động Đình (nay ở
phía Đông Bắc tỉnh Hồ Nam). Hiện di tích về bà còn rất nhiều: tại chùa Kiến
Quốc thuộc thành phố Trường Sa (thủ phủ tỉnh Hồ Nam), tại ngôi chùa trên núi
Thiên Đài trong hệ thống dãy núi Ngũ Lĩnh.
Hồ Động Đình, Hồ Nam, Trung Quốc
Năm 1979, giáo sư Trần Đại Sỹ tìm thấy tại thư viện bảo tồn di tích
cổ ở tỉnh Hồ Nam (tỉnh thủ phủ phía Nam Động Đình Hồ, Trung Quốc) có ghi chép
trận đánh Động Đình Hồ như sau:
Quang Vũ nhà Hán sai Phục ba tướng quân Tân tức hầu Mã Viện. Long
nhượng tướng quân Thận hầu Lưu Long đem quân dẹp giặc. Vua Bà sai nữ tướng Phật
Nguyệt tổng trấn hồ Ðộng Đình. Mã Viện, Lưu Long bị bại. Vua Quang Vũ truyền
Nhị thập bát tú nghênh chiến, cũng bị bại. Nữ vương Phật Nguyệt phép tắc vô
cùng, một tay nhổ núi Nga Mi, một tay nhổ núi Thái Sơn, đánh quân Hán chết, xác
lấp sông Trường Giang, hồ Ðộng Đình, oán khí bốc lên tới trời.
Cuộc chiến bảo vệ Giang Sơn
Không sao tiến quân được, quân Hán phải chờ thêm viện binh. Viện
binh tới, quân Hán chia thêm chiều ngả tấn công. Trước sức mạnh của quân Hán,
Phật Nguyệt phải cho quân vừa đánh vừa lùi để bảo toàn lực lượng, cuối cùng cho
quân rút về sông Thao.
Một cánh quân khác của quân Hán tiến xuống Hợp Phố, rồi chia làm hai
đường thủy bộ tiến đến Lãng Bạc khiến quân Lĩnh Nam phải chia ra đối phó với
các cuộc tấn công của quân Hán.
Nhiều trận đánh ác lệt diễn ra nơi Bạch Hạc, Phú Thọ giữa quân của
Phật Nguyệt với quân Hán. Mồng 10 tháng 2 năm 43, phó tướng Lưu Long huy động
thêm quân đánh úp vào doanh trại của Phật Nguyệt.
Một trận đánh sống còn diễn ra, nữ tướng Phật Nguyệt tả xung hữu
đột giữa trùng trùng quân Hán vây quanh rồi thoát được khỏi vòng vây, ra đến
bờ sao Thao. Nhưng khi bà nhìn lại thì không còn thấy bóng dáng quân sĩ nào
theo mình cả, tất cả đều đã nằm lại, trong khi quân Hán đã bắt đầu áp tới.
Để giữ tròn khí tiết, nữ tướng liền gieo mình xuống dòng sông Thao nơi quê nhà.
Phật Nguyệt chống cự với Lưu Long ở mạn
ngược sông Thao nhiều trận đẫm máu, giặc bị kìm chân không xuôi về nam được.
Ngày mồng mười tháng hai năm Quý Mão, Lưu Long dùng kế phục quân đang đêm bao
vây phá vỡ đại đồn của Phật Nguyệt. Phật Nguyệt tả xung hữu đột thoát được vòng
vây, chạy theo bờ sông một thôi đường, ngoảnh lại quân tướng không còn ai, sau
lưng lửa bốc rực trời, giặc lại chận đánh ở phía trước. Phật Nguyệt kêu to một
tiếng, phóng ngựa xuống sông, nước réo lên ầm ầm, tự nhiên xoáy thành vực lớn.
Phật Nguyệt được thờ ở các xã Thanh Vân,
Phương Lĩnh huyện Thanh Ba, Vĩnh Phú. Sau khi nữ tướng Phật Nguyệt mất, nhiều
làng ven sông Thao lập đền thờ để tưởng nhớ. Ngày nay ở đình làng Phượng Lĩnh
có đôi câu đối ca ngợi nữ tướng như sau:
Tích trù Động Đình uy trấn Hán,
Danh lưu thanh sử lực phù Trưng.
Nghĩa là:
Một trận Động Đình, oai trấn quân Hán,
Tên còn trong sử, phò tá Trưng Vương.