Nghi Hòa công chúa (nàng Quỳnh), Hổ Oai Đại tướng quân, phó tướng Tiên Phong phó tướng, Quế Nương công chúa (nàng Quế), chức Phó tướng Tiên Phong. Hiếm người biết cặp song tướng vốn là chị em sinh đôi.
Thần tích kể lại rằng: Làng Trò
bên sông Thao là một làng nhỏ ít dân, có hai vợ chồng Nguyễn Diệu và Đào Thị Lộng
là dân chài, hiền lành như đất, sớm chiều thả lưới buông câu, sống lần hồi với một
túp lều lúp xúp và mảnh vườn nhỏ bé. Đã nghèo lại hiếm muộn về đường con cái,
hai vợ chồng thường phàn nàn về nỗi ông trời sao ở bất công, với người lương
thiện chỉ biết chí thú làm ăn mà bắt tội hiếm cả con lẫn của.
Một lần, bà Lộng nằm mộng thấy vị thần núi hiện đến, mặc áo
dài xanh, tay cầm hai cành hoa, cười mà nói rằng : " Có hai bông hoa đẹp
nơi đỉnh núi ta vẫn để dành cho các ngươi, sao lại không hái về ? Thương vợ chồng
người tu nhân tích đức, ta cho hai cành hoa của ta để các ngươi được hưởng phúc".
Nói đoạn, vị thần đặt một bông quỳnh và một bông quế lên một chiếc mâm vàng
chói lọi, trao cho hai người.
Thời gian sau bà Lộng
sinh được hai người con gái, vợ chồng đặt tên cho là Quỳnh và Quế. Quỳnh và Quế
cùng cất tiếng khóc chào đời một lúc, nên làng không biết coi ai là chị gọi ai
là em. Tới khi hai con vừa đầy tuổi vợ chồng dọn đến ở xóm nhỏ dưới chân núi.
Xóm nhỏ này nằm bên dòng sông Bứa giữa vùng rừng núi bao la
thăm thẳm, thuở đó không rõ tên gì, sau này được gọi là làng Quang Húc. Quỳnh
và Quế lên ba tuổi bụ bẫm xinh đẹp, cả làng đều yêu quí. Khi hai em lên mười tuổi,
những người đi rừng bắt đầu dạy các em ném lao. Các em đòi bắn nỏ. Mọi người đều
cười, nói rằng các em chưa đủ sức giương nỏ, hãy cố mà ném cho cây lao trúng
thân chuối cách ba bước chân là được.
Người trùm phường săn vui vẻ đưa các em cây cung của mình.
Quỳnh và Quế lần lượt nhấc dây cung của người trùm phường săn, lắp tên, bắn thử.
Cây cung cong như vành nguyệt mồng ba, chiếc tên vút bay như ánh chớp ! Từ đó
Quỳnh và Quế được tập lao tập cung, tập tìm vết thú rừng, tìm nơi chúng uống nước.
Mùa xuân, xóm núi trắng xóa hoa mận hoa ban, mùa hè quả dâu
da rụng đỏ suối, tới mùa thu lá rừng trải vàng mặt đất, làng gặt lúa nếp lúa tẻ,
cất rượu và làm lễ ăn cơm mới. Cụ già nhất làng nói : " Quỳnh và Quế đã lớn
tuổi rồi, bắt được dấu con nai, tìm được chỗ ẩn con dũi, thế mà chưa biết ăn ở
cho có thứ bực. Phải phân biệt chị em mới được. Nay ta hãy dồn con hươu cho hai
đứa nó bắn, đứa nào bắn trúng đầu con hươu sẽ là chị ".
Làng khen phải, hò reo dồn vây một con hươu vàng cho hai em
gái bắn. Mũi tên của Quỳnh buộc dải lụa trắng, mũi tên của Quế buộc dải lụa đỏ.
Con hươu vàng bị dồn chạy lao qua chỗ các em gái nấp. Hai mũi tên bay như cánh
én ! Con hươu bị trúng tên chạy tới khe suối, cúi đầu uống nước. Dân làng đuổi
tới vây bắt cùng vui vẻ reo lên. Mũi tên buộc lụa trắng cắm giữa hai sừng hươu
còn mũi tên dải đỏ cắm vào cổ hươu ngập nửa thân tên . Từ đó, Quế phải gọi Quỳnh
là chị.
Khi Quỳnh và Quế tới tuổi mười lăm như trăng tới ngày rằm, vẻ
đẹp rực rỡ hiện ra làm chói mắt người trẻ người già. Cụ già nhất làng lại nói :
" Hai đứa nó đúng là hoa của thần núi ban cho dân ta ! ".
Quỳnh và Quế xinh tươi như hai bông hoa của rừng núi châu Đại
Man, bắn nỏ giỏi vượt hết trai tráng trong vùng, tiếng đồn về vẻ đẹp và tài bắn
nỏ của hai cô gái bay khắp châu. Hai ông bà Nguyễn Diệu và Đào Thị Lộng tuổi đã
già chỉ mong cho con gái yêu sớm được gặp người xứng đôi phải lứa.
Thuở ấy giặc Hán đô hộ nước ta, chính sách bóc lột của giặc
làm dân ta cơ cực trăm chiều. Giặc bắt dân châu Đại Man nộp mật ong, lông trĩ,
nộp đuôi sóc và nhung hươu, nộp tắc kè và sừng dê.
Giặc lại bắt nộp rượu và gạo nếp, rồi lại bắt nộp quế và trầm.
Giặc còn đánh thuế rất nặng vào các lâm sản phẩm. Dân không nộp đủ, không có nộp
đều bị giặc cùm kẹp đánh đập. Mỗi khi quan quân của chúng đi các làng các động
thu thuế và cống phẩm, dân chúng phải trốn tránh lẩn lút góc rừng ven núi, vô
cùng khốn khổ.
Một ngày có tin về làng là giặc Hán sẽ bắt hai nàng Quỳnh và
Quế. Cả làng căm phẫn, lo sợ. Ông bà Nguyễn Diệu lại càng lo nghĩ trăm phần, mất
ăn mất ngủ. Quỳnh và Quế vẫn cười nói như không. Cụ già nhất làng nói : "
Các con hãy lẩn vào rừng sâu hang kín, tránh chúng nó như tránh con cọp dữ
".
Nàng Quỳnh và nàng Quế đều nói : " Chị em chúng con
không tránh cọp bao giờ, thấy cọp là bắn sao lại chịu trốn tránh mấy tên lính
Hán ? Nếu quan quân giặc Hán tới đây, hai chị em sẽ bắn chúng nó như bắn con chồn
con nai thôi ! ".
Quả nhiên giặc về vây làng. Làng nổi trống nổi mõ. Trai làng
nghiến răng giương nỏ lắp tên độc tẩm nhựa cây sui. Giặc nhốn nháo hò nhau tháo
chạy. Xác giặc phơi đầy ở cửa rừng, quạ bay lượn kêu toáng lên rồi lảng tránh cả.
Con gái của vị chủ trưởng châu Đại Man là Nàng Xuân dựng cờ
tụ nghĩa, hào kiệt trong châu mang nỏ theo về được tới vài trăm người. Các làng
các động châu Đại Man rèn giáo vót tên đều rủ nhau theo về với Xuân nương.
Quỳnh và Quế muốn được gặp nàng Xuân. Nàng Xuân cũng cho người
tìm gặp nàng Quỳnh và nàng Quế, nói rằng : " Xuân nương mưu việc lớn mong được gặp
hai nàng để kết bạn ! ". Nàng Quỳnh và Quế đều thưa : " Quan chủ trưởng
châu là dòng lạc hầu. Anh nàng Xuân mưu giết Tô Định, việc không thành, bị giặc
sát hại. Nàng Xuân vì nợ nước thù nhà đứng lên cùng dân trong châu chống
nhau với giặc. Hai đứa chúng tôi phải tìm đến xin làm nữ tốt dưới cờ của nàng
Xuân, đâu dám nói tới chuyện kết bạn cùng nàng ! ". Nói rồi cả hai cùng về ra mắt Xuân nương. Xuân nương mừng vui nói với hai người : " Hai người thật
là những bông hoa của thần núi, đã xinh đẹp lại kiên cường. Ta không dám coi
hai nàng là kẻ dưới nên muốn được kết bạn với hai nàng để cùng đuổi giặc Hán đấy
thôi ! ".
Anh thư hào kiệt Nàng Quỳnh và Nàng Quế cũng vui mừng vì biết
Xuân nương là bậc hào kiệt có tài đức, có trí lớn, nhìn xa nghĩ sâu, xứng đáng
là ngôi chủ trưởng đưa dắt mọi người, xin theo Xuân nương.
Xuân Nương an ủi bảo ban, dặn rằng về kết bạn với các tráng
sĩ, cùng nhau hãy lên núi Bứa lập trại chống giặc. Nàng Xuân lại nói : "
Muốn vào nhà phải qua cổng. Vùng núi rừng châu Đại Man ta lấy sông Bứa làm hào,
núi Bứa làm cổng, hai em chớ coi thường. Các động đều ở nhà sàn, ăn cơm ống, đó
chính là quê của mẹ ta. Các em giữ vững nơi cổng ngõ, chờ lệnh ta nhé ! ".
Từ đó núi Bứa trở thành nơi hai nàng Quỳnh và Quế thiết lập căn cứ chống giặc
Hán.
Xuân nương đưa hai nàng Quỳnh và nàng Quế cùng theo về gặp Nhị vua Hai Bà
Trưng ở Mê Linh. Hai Bà vui mừng giao cho nhị vị anh thư hào kiệt Quỳnh và Quế
năm trăm quân, cho về đóng giữ núi Bứa.
Khi Trưng Vương tế cờ ở Hát Môn, đem đại quân tiến đánh Luy
Lâu lại có lệnh gọi Nàng Quỳnh và Nàng Quế về, phong làm Tiên phong phó tướng, dưới trướng
của Đông Cung công chúa, Tiên Phong hữu tướng Thiều Hoa, tiến quân đến Luy Lâu
vây hãm.
Dẹp xong Tô Định, Hai Bà luận công phong thưởng các tướng
sĩ, hai nàng Quỳnh và Quế đều được sắc phong công chúa.
Năm 43, nhị vị anh thư danh tướng Nàng Quỳnh và Nàng Quế giao
chiến khốc liệt với quân binh của tướng nhà Hán Mã Viện, hy sinh tại trận chiến
ở Vũ Ninh. Xã Quang Húc ở đầu con sông Bứa (còn có tên là sông Mỹ Giang) có miếu
cây Quân thờ nàng Quỳnh và miếu cây Sấu thờ nàng Quế. Núi Bứa trong truyền thuyết
trên còn có tên là núi Nàng Hời, Nàng Hỡi.
Quỳnh Hoa Công Chúa – Quế Hoa Công Chúa Trong Tín Ngưỡng Tứ Phủ
Quỳnh hoa công chúa, Quế hoa công chúa là hai vị hầu cận bên Mẫu
thượng thiên và Tam tòa thánh mẫu ( hay còn gọi là Chầu Quỳnh, Chầu Quế). Tuy
vậy trong nghi thức hầu đồng thì không có Chầu Quỳnh, Chầu Quế.
Chầu Quỳnh là Chầu Cửu tỉnh, Chầu được giao coi sóc công việc trong
phủ Sòng xứ Thanh, nơi nổi tiếng linh thiêng. Chầu Quế là Chầu đệ nhất thượng
thiên, chầu cùng với Chầu Quỳnh là hai người than cận nhất bên Mẫu, thường biến
hiện, rong chơi khi sơn lâm rừng xanh núi đỏ, khi vào Nam ra Bắc … Chầu anh linh
hiển hách, thường giáng phúc trừ tai, thẳng tay trừng trị kẻ gian ác, ban tài
tiếp lộc cho người hiền lương.
Nơi đâu có đền Mẫu, nơi đó Chầu bà ngự về. Chầu được giao giữ sổ
sách Tam Tòa, coi sóc chốn nội cung Phủ Dày – Nam Định Vì vậy Chầu quỳnh,
Chầu quế thuộc Thập vị thánh chầu và được thỉnh hầu trong nghi thức hầu đồng.
Theo tích xưa thì Quỳnh hoa công chúa, Quế hoa công chúa là hai
tướng của Hai Bà Trưng, sinh ra ở Hà giang, theo Hai Bà Trưng khởi nghĩa, khi
đường cùng thì chạy về quê nhà và tự vẫn ở Sông Lô. Sau hai bà hiển linh và hầu
Mẫu Tam Tòa. Được Ngọc Hoàng sắc phong Quỳnh hoa công chúa, Quế hoa công chúa.
Theo Sách Đại nam nhất thống chí, Thần tích Đền Ỷ La và truyền
thuyết nhân gian kể lại: xưa có hai nàng công chúa con Vua Hùng là công chúa
Phương Dung ( Quỳnh hoa công chúa – Bia văn tại Đền) và công chúa Ngoc Lân (
Mai hoa công chúa ), một hôm theo xa giá đến bờ Sông Lô ( thuộc thôn Hiệp
Thuận), nửa đêm mưa to gió lớn, hai nàng đều hóa, nhân dân trong vùng lập Đền
thờ.
Đến Triều Vua Cảnh Hưng ( 1738) Đền được xây dựng quy mô hơn, Năm
1767 nhân dân xây thêm Đền Thượng ( Đền Sâm Sơn, Đền Núi Dùm) ở phía tả Sông
Lô, phía thượng nguồn, thuộc chân núi dùm, thuộc xã Tràng Đà, thành phố Tuyên
Quang, thờ Công chúa Ngọc Lân – người em . Đền Hiệp Thuận ở hạ lưu gọi là Đền
Hạ Tuyên Quang ( Đền Tam cờ), thuộc tổ 4, phường Tân Quang, thị xã Tuyên Quang,
thờ Công chúa Phương Dung – người chị.
Theo truyền thuyết hai ngôi Đền có nhiều linh ứng nên từ xa xưa hai
nàng được tôn là Thánh Mẫu. Khi nhà Trần đi qua Sông Lô thấy Miếu ven đường (
Tức Đền Tam Cờ ngày nay và Đền Cấm, Núi Dùm), vào bái yết cầu đảo, được hai bà
phù giúp, sau khi thắng trận sắc phong Nhị vị tiên nương Thủy cung công chúa.
Hai bà hầu cận Mẫu Cửu trùng, Tam tòa thánh mẫu, nhân dân tôn xưng
là Quỳnh nương, Quế nương công chúa. Hai bà là sự hóa thân của Tam giới: Thiên,
Thượng, Thoải, nên môi trường nào thì phong Ngài theo màu sắc của môi trường
đó.
Ths Nguyễn Thy Nga tổng hợp