Đền Bạch Trì, xã Đạo Tú, huyện Tam Dương, tỉnh Vĩnh Phúc thờ tam vị tướng: Đệ nhất Sơn Lạc Đại Vương, đệ nhị Sơn Lạc Đại Vương, đệ tam Sơn Lạc Đại Vương, được gọi là 3 anh em Lã Lạc đã giúp Lã Gia (Thừa tướng nhà Triệu của Triệu Đà) cùng nhân dân trong vùng và nước Âu Lạc chống cuộc xâm lược triều Tây Hán.
Đền Bạch Trì có kiến trúc 3 gian thờ dọc, 2 gian ngoài là tiền
tế, gian trong cùng bố trí thượng cung bởi sàn ván gỗ nâng cao cách nền 1,60m.
Thượng cung bưng ván xung quanh, phía mặt tiền có cửa võng, tạo thành nơi kín
đáo, thâm nghiêm - nơi thần ngự. Diện tích mặt bằng kiến trúc đền là 76m2. Kết
cấu vì kèo theo dạng thức “chồng rường giá chiêng”, gồm 5 bộ vì, 4 hàng chân
(20 cột gỗ lim) kê trên đá tảng tạo thế vững chãi cho ngôi đền.
Đây là loại hình di tích ở vùng đất rộng, người thưa, nơi thờ
tự thường được dựng trên một quả đồi - gò nhưng kiến trúc nhỏ, đáp ứng nhu cầu
sử dụng phù hợp với địa bàn dân cư thưa thớt.
3 tảng đá - nơi hoá của tam vị Lã Lạc
Đền Bạch Trì được xây
dựng với những mảng chạm khắc gỗ truyền thống tinh xảo, sáng tạo, nghệ thuật mang
đậm dấu ấn của nền văn hóa lúa nước.
Các bức chạm gỗ dân gian về các đề tài “tứ linh” (Long - Ly
- Quy - Phượng) với các mô típ: Rồng ổ, phượng càm thư, lân cõng chữ thọ,… được
thể hiện rất sắc nét, duyên dáng, uyển chuyển, sống động qua kỹ thuật đục bong,
chạm lộng trên các bức cốn nách, xà rồng, bức vỉ ruồi đầu hồi, cửa võng,…
Tất cả đều là những tác phẩm nghệ thuật chạm khắc gỗ cổ truyền
của cha ông ta ở thế kỷ XIX, góp phần tạo nên những giá trị văn hoá truyền thống
được lưu giữ tại đền Bạch Trì, làm khuôn mẫu cho lối trang trí kiến trúc thờ tự
cộng đồng của vùng quê trung du Bắc Bộ.
Đền thờ tam vị: Đệ nhất Sơn Lạc Đại Vương, đệ nhị Sơn Lạc Đại
Vương, đệ tam Sơn Lạc Đại Vương, thường gọi là 3 anh em Lã Lạc, đã giúp Lã Gia
(Thừa tướng nhà Triệu mà Triệu Đà là người khởi nghiệp) cùng nhân dân trong
vùng và nước âu Lạc chống sự xâm chiếm của triều Tây Hán ở phía Bắc thời kỳ khoảng
thế kỷ I trước công nguyên.
Đầu rồng - chạm gỗ thế kỷ XIX
Bia "Bạch Trì từ tam vị đại vương ngọc phả bi" lập
năm Thành Thái thứ 17 (1903)
Phóng viên Tạp chí điện tử Văn hiến Việt Nam tại đền
Theo cuốn Tam Dương trên đường đổi mới, được NXB Văn hóa
Thông tin và Công ty VH Trí Tuệ Việt phát hành năm 2006, thông tin rõ nét về thần
được thờ ở đền Bạch Trì: Cuối đời Hùng Duệ Vương, đầu đời An Dương Vương, thế kỷ
III. Trước Công nguyên, ở đất Quảng Oai, Sơn Tây có một gia đình: chồng là Lã
Trọng đã 50 tuổi và vợ là Bạch Thị Cẩn đã 40 tuổi mà vẫn chưa có con.
Ông bà phải nuôi người con của anh họ làm con nuôi, đặt tên
là Lã Gia. Ông bà có nghề làm thuốc và thường làm điều thiện giúp người. Một
đêm bà nằm mộng thấy bà nuốt một quả trứng và thấy một con rồng trắng bay tới
phía bà. Từ đó, bà mang thai.
Ngày 9 tháng 9, bà sinh được một bọc ba con trai diện mạo
khác thường, trí tuệ thông minh, mới ba tuổi đã biết kính trên nhường dưới,
nghe người học mà biết, nghe người nói mà hiểu.
Ông bà đặt tên là Nhất Lạc, Nhị Lạc, Tam Lạc. Khi 7 tuổi ba
anh em bắt đầu đi học. Đến năm 13 tuổi, ba anh em đã nổi tiếng cả vùng về sức lực
và thiên tài võ nghệ. Khi họ 15 tuổi, ông Lã Trọng và bà Bạch Thị Cẩn cùng mất
một ngày. Ba năm sau, đoạn tang bố mẹ, Lã Gia (sử cũ còn chép là Lữ Gia) vào
triều đình Nam Việt được tuyển dụng làm triều thần, sau này được thăng tới chức
Thừa tướng.
Cuốn thư trước mặt đền được xây dựng khang trang.
Từ trại Long Trì, ba anh em Đô thống Lạc nhận được lệnh Lã
Gia đem 5.000 quân lên biên ải chặn đánh Hán binh. Ba vị đã đánh nhiều trận,
tiêu diệt nhiều giặc Hán. Nhưng trong một trận đánh gần đất quê hương, gặp lực
lượng địch đông gấp bội áp đảo, ba vị bị trọng thương vào đầu. Biết tình thế
không thể chiến đấu được nữa và không thể sa vào tay giặc, ba vị phi ngựa chạy
về trại Long Trì. Đến một cái quán gần ngã ba đường, gặp một bà cụ, ba vị liền
hỏi: "Đầu chúng tôi như thế này thì sự thể sống chết ra sao?". Bà cụ
trả lời: "Xưa nay chưa bao giờ có người đứt cổ mà sống được". Ba ông vội
phóng ngựa lên đến đỉnh núi Rừng Thần gần Ao Bạch thì cùng ngã ngựa và hóa. Hôm
ấy là ngày mùng 3 tháng giêng. Hôm sau, dân Long Trì lên núi thì thấy thi hài
ba vị đã được mối xông kín nên đắp điếm phần mộ và dựng miếu thờ như lời ba vị
đã dặn.
Sau này, các triều đại phong kiến tự chủ nước ta đều xuống
chiếu cấp ruộng cho làng Long Trì để thờ phụng ba vị. Thời vua Trần Thái Tôn
(1225), ba vị được truy phong:
"Đương cảnh thành hoàng hùng chấn uy linh phù phụ đạo (đệ nhất sơn
Lạc đệ nhị sơn Lạc, đệ tam sơn Lạc) đại vương". Thời vua Lê Thái Tôn
(1426), ba vị được phong "Hiển ứng âm phù cường địch anh linh".
Toạ lạc trọn vẹn trên một quả đồi có tên đồi Rừng đền, diện
tích khoảng 3ha, cao hơn mặt ruộng xung quanh 30 - 40m. Phía trước đền (hướng
Nam) là dòng Sơn Tang (tức sông Phan) lững lờ uốn lượn quanh năm, tạo nên một
vùng trũng, rộng, dân địa phương gọi là “Ao Bạch”, cùng rừng cây già có Đại, Sộp,
Trám,…, đền Bạch Trì được quy hoạch, tôn tạo trở thành trọng điểm di tích danh
thắng của huyện Tam Dương.