Đền thờ Bát Hải Long Vương tại Bỉm Sơn, Thanh Hóa là nơi thờ phụng Vĩnh Công Đại Vương, được Hùng Vương thứ 18 sắc phong là Thần hiệu: “Vĩnh Công Bát Hải Động Đình tôn Thần”, nhờ công đánh tan giặc phương Bắc, giúp dân an cư lạc nghiệp.
Đền thờ Bát Hải Long Vương xưa thuộc trang Phú Dương, tổng
Trung Bạn, huyện Tống Sơn, trấn Thanh Hoa; nay thuộc khu phố 5, phường Phú Sơn,
thị xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
Theo sách “Thanh Hoa chư thần lục” ((bản dịch), ký hiệu
VHv.1290, Thư viện Hán Nôm) của Quốc sử quán triều Nguyễn ghi chép về các vị Thần
được tôn thờ ở Thanh Hóa, thì vị Thần được tôn thờ ở trang Phú Dương có Hiệu duệ
là “Bát Hải Long Vương tôn Thần” - Vị thủy thần hộ dân trên vùng sông, biển.
Miếu thờ Thần Bát Hải Long Vương
Tương truyền, vào thời Hùng Vương thứ 18, vua Hùng Duệ Vương
trị vì đất nước ở vùng đất trong bãi bồi cửa sông Lâu ngày xưa (nay là làng Phú
Dương) dân cư thưa thớt, nghề nông chưa phát triển, chủ yếu làm nghề chài lưới.
Trong làng có một cô gái mồ côi cả cha lẫn mẹ, thường mò cua
bắt ốc ven sông, được vợ chồng một ngư dân vùng bãi ngoài (Nga Sơn) nhận về làm
con nuôi.
Trong một lần về thăm quê cũ, ra sông Lâu tắm, bỗng mây nổi,
sóng cồn, bỗng một con Giao Long nổi lên quấn lấy nàng, sau đó nàng có thai.
Trong một đêm mưa gió, nàng sinh ra một cái bọc. Quá kinh hãi, nàng ôm cái bọc ấy
thả xuốngdòng sông Lâu.
Cái bọc ấy nhiều lần trôi vào bè vó của một ông lão thuyền
chài; thấy kỳ lạ, ông lão vớt lên lấy dao rạch, từ trong bọc chui ra 3 con
Hoàng Xà (nửa rồng nửa rắn, mào đỏ, vẩy vàng) trong ánh hào quang tỏa ra chói lọi.
Con lớn bơi thẳng vào bờ, rồi biến mất trong cái giếng tự nhiên (nay là Giếng
Thiêng đền Bát Hải Long Vương). Hai con nhỏ bơi về phía cửa biển Thần Phù (Nga
Sơn).
Vào một đêm mưa to, gió lớn, sấm sét đùng đùng, dân trong vùng nghe âm vang tiếng
nói khác thường từ cái giếng ven sông Lâu: “Ta là Thái tử Long cung, được Vua
cha sai lên giúp nướcNam đánh giặc”.
Biết là có Thần linh hiển báo, hôm sau, các bô lão trong
làng đến bên bờ giếng đắp một ụ đất cao, thắp hương, cầu nguyện; rồi kêu gọi
nhau bỏ công sức, tiền của dựng một cái miếu thờ, gọi là miếu Thủy Thần để ngày
ngày hương khói.
Khi giặc phương Bắc xâm lăng nướcNam, Vua Hùng Duệ Vương sai con rể là Sơn Tinh
đánh lui giặc trên bộ. Riêng cánh quân thủy của giặc vì có nội gián chỉ đường
theo tám cửa biển đánh sâu vào đất liền, thế giặc rất mạnh nên quan quân thua
trận rút dần từng bước.
Vua Hùng Duệ Vương lập đàn cầu đảo, được Thiên Đình ứng báo:
“Tại bãi trong cửa sông Lâu, có kỳ nhân có thể đánh tan thủy tặc”.Vua sai sứ giả
về tìm, dân làng đưa sứ giả đến bên giếng Thần, Hoàng Xà hiện lên thành một
chàng trai lực lưỡng khôi ngô tuấn tú. Xin nhà vua cho 10 ngày để triệu hai em
và tuyển đủ 10 tướng tài, chiêu mộ quân sĩ sẽ đánh tan giặc giữ.
Kỳ nhân Hoàng Xà dẫn quân tướng ra trận nhanh chóng phá tan
giặc trên cả tám cửa biển. Đất nước trở lại thanh bình, Vua Hùng Duệ Vương
phong cho Thần Hoàng Xà là Vĩnh Công Đại Vương và có ý lưu lại cùng lo việc triều
chính.
Nhưng Vĩnh Công xin được về quê để dạy dân khai hoang, rửa mặn
trồng lúa, chài lưới, trồng dâu, nuôi tằm dệt vải, đồng thời cắt cử các quan lớn
đã từng theo Thần đi đánh giặc trấn giữ tám cửa biển nước Nam. Từ đó tám cửa biển
nướcNam đều yên ổn, dân cư ngày càng đông đúc, trù phú.
Hằng năm, cứ đến dịp ngày đại thắng, Vĩnh Công Đại Vương lại triệu tập các quan
lớn ở tám cửa biển về Phú Dương (nơi Thần đang ngự) hội tụ để tâu trình việc
trông coi an ninh vùng biển, việc chăn dắt dân chúng ở từng vùng.
Trong những ngày hội tụ, Thần Vĩnh Công chủ trì, xem xét
tình hình tám cửa biển, nhắc nhở các quan lớn chăm lo việc hướng dẫn, bày bảo
cho dân khẩn hoang, lập ấp, cấy lúa trồng màu, đan thuyền, đan lưới đánh bắt
cá, tôm và giữ gìn cho dân chúng được yên lành.
Vĩnh Công còn cho tổ chức Hội thi bơi thuyền, đánh vật, hát
đúm, hát bè giữa các bản hạt, vừa để dân chúng tự hào về chiến công ngày trước
và nêu cao tinh thần thượng võ. Bản thân Thần Vĩnh Công cũng tham gia múa hát,
vui hội cùng dân chúng.
Công đức của Vĩnh Công đối với dân làng Phú Dương rấtlớn, Ngài sống gần gũi với
dân như tình cha con, dạy bảo dân cấy lúa, trồng dâu, chăn tằm dệt vải, đánh bắt
cá tôm.
Dân Phú Dương cũng như cư dân ở tám cửa biển nướcNamnhờ ân
huệ của Ngài ngày càng no đủ, xóm làng sầm uất, cuộc sống bình yên, giàu có, rộn
vang tiếng đàn, tiếng hát.
Một hôm Vĩnh Công mời các vị hương lão trong làng Phú Dương đến dặn rằng: “Ta
cùng các vị là dân lân hương ấp, ăn ở với nhau như tình ruột thịt, nghĩa như
cha con; nay ta sắp phải vâng mệnh về chầu Vua cha Long Vương, nếu có nhớ đến
ta thì nhà ta ở đây là Miếu sở, ngày ta đi là ngày Giỗ”.
Tất cả hương lão nghe vậy đều nức nở, bùi ngùi. Bỗng trời đất tối sầm, sấm chớp
giữ dội. Lát sau trời quang mây tạnh các hương lão bàng hoàng chỉ còn thấy xiêm
y của Vĩnh Công Đại Vương để lại. Hôm đó, nhằm vào ngày 25 tháng Tám năm Mậu
Thìn.
Dân làng dâng biểu về kinh: Vua Hùng Duệ Vương thương xót
ban phong Thần hiệu: “Vĩnh Công Bát Hải Động Đình tôn Thần” lại sai cấp tiền
cho dân tổ chức táng tế chu đáo và sửa sang nơi ở của Thần thành Miếu điện, rồi
lại hạ sắc miễn thuế cho dân lấy ân lộc ấy hàng năm mà hương khối.
Dân làng Phú Dương tôn Thần Bát Hải Long Vương là Thành
Hoàng của Làng để cầu mong được Thần phù hộ, độ trì, che chở.
Ngôi Miếu thiêng thờ Bát Hải Long Vương được xây dựng thành
ngôi đền lớn vào khoảng những năm giữa thời Lê Trung Hưng (Thời lê Trung hưng từ
năm1633-1788).
Được tôn tạo vào những năm đầu thời Nguyễn (Thời Nguyễn từ
năm1802- 1945). Ngôi đền tọa lạc trên đất làng Phú Dương, bên bờ sông Lâu thuộc
tổng Trung Bạn, Phủ Hà Trung , Thanh Hoá (nay là khu phố 5 phường Phú Sơn, Thị
xã Bỉm Sơn, tỉnh Thanh Hóa).
Ngôi đền xưa đã bị chiến tranh và sự vô thức một thời tàn phá, nhưng theo ký ức
của các cụ cao niên trong làng Phú Dương thì Đền thờ Thần Bát Hải Long Vương là
một ngôi đền lớn nhất xã Hà Dương.
Ngôi đền xưa kiến trúc theo kiểu chữ Đinh(T), gồm Tiền tế,
và Hậu cung; Cung Tiên tế có 5 gian, với 4 vì kèo ghỗ “chồng rường kẻ bẩy, với
12 cột cái và 12 cột quân, xung quanh được thưng ván dổi, mái lợp ngói âm
dương, rui mè bằng ghỗ lim.
Cung Tiền tế có bộ hương án lớn, hai hàng chấp kích, một hòm
lưu giữ các bài văn tế, thơ văn của các nhân sĩ đề tựa, hai lư hương đồng, một
đôi hạc đứng trên lưng rùa và hàng chục bát hương bằng gốm, đá có trang trí hoa
văn thời Lê. Hậu cung gồm 3 gian, cột lim, tiếp giáp giữa cung tiền tế và hậu
cung là máng nước bằng ghỗ có hai trụ đá vuông chống đỡ, Hậu cung có 3 ban thờ,
từ thấp lên cao; Thượng ban đặt tượng và Thần vị Bát Hải Long Vương, Trung ban
có bát hương và hòm đựng sắc phong, hạ ban có bát hương và các đồ thờ sơn son
thếp vàng.
Những năm gần đây với truyền thống “uống nước nhớ nguồn” nhân dân quanh vùng đã
góp công của tôn tạo lại ngôi đền này nhưng quy mô nhỏ hơn kiến trúc xưa trên nền
móng cũ hướng ra sông Lâu, trong một không gian vừa thoáng đãng vừa thiêng
liêng.
Năm 2009 Đền Bát Hải LongVương đã được UBND tỉnh Thanh hóa xếp hạng, công nhận
là di tích lịch sử văn hóa cấp Tỉnh.
Để đáp ứng nhu cầu chính đáng về đời sống văn hóa tâm linh của nhân dân trong
và ngoài địa bàn Thị xã, để gìn giữ, bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa của Di
tích văn hóa lịch sử; đồng thời giáo dục tinh thần yêu nước và đạo lý “Uống nước
nhớ nguồn” đối với các tầng lớp nhân dân, nhất là đối với thế hệ trẻ, chúng tôi
thiết nghĩ: Các cấp chính quyền mà, trực tiếp là UBND phường Phú Sơn sớm hoàn
chỉnh quy hoạch, dự án trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt, làm cơ sở để kêu
gọi, vận động sự đóng góp của nhân dân, nhằm triển khai việc mở rộng tôn tạo Di
tích đền Bát Hải long Vương tương xứng với giá trị văn hóa lịch sử của một Di
tích cấp Tỉnh.
Trần Đức Hậu -NCT thị xã Bỉm Sơn
Nguồn: Cổng
thông tin điện tử Bỉm Sơn – Thanh Hóa