Đền Chi Cát phường Tiên Cát, nằm ở trung tâm của thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ thờ Cao quan Đại Vương, húy là Thạch Khanh, đã có công chu du thiên hạ tìm các phương thuốc chữa trị bệnh tật cho muôn dân. Khi mất hai vị rất linh ứng, âm phù các tướng lĩnh đánh giặc ngoại xâm giữ nước.
Đền Chi Cát là một di tích của phường Tiên Cát, nằm ở trung
tâm của thành phố Việt Trì, tỉnh Phú Thọ. Đền Chi Cát có địa thế tọa lạc rất đẹp,
được xây dựng trên một khu đất rộng, bằng phẳng phía ngoài con đê tả Sông Thao,
cách hợp điểm Tam Giang: Thao- Đà- Lô, mà xưa nay quen gọi là ngã ba Bạch Hạc
khoảng 200m.
Vị trí của Đền trước đây là một ghềnh đá cạnh dòng Sông Thao,
không bao giờ xối lở.
Tọa lạc trong một khuôn viên rộng, cao hơn mặt bằng của của
bãi phù sa tới 5m, ngôi Đền được bao bọc trong mầu xanh của các loại cây xanh,
cây ăn quả, cây cảnh và những rặng tre già.
Một không gian tĩnh mịch, thoang thoảng hương thơm của các
loài hoa, như làm cho ngôi Đền trở nên linh thiêng hơn, nhưng cũng ấm cúng, gần
gũi với đời thường – đó là điểm đầu tiên mà du khách sẽ cảm nhận thấy khi đến
đây.
Trải qua bao nhiêu biến động của lịch sử, ngôi Đền Chi Cát
xưa đã không còn nguyên vẹn kiến trúc cổ ban đầu. Hình ảnh ngôi Đền mà chúng ta
đang thấy là kết quả của lần tôn tạo, xây dựng lại năm 1995.
Đền Chi Cát được xây dựng theo hướng Nam, với một tầm nhìn
thật thoáng, rộng, nhìn thẳng sang dãy núi Ba Vì. Ngôi Đền có kết cấu theo lối
chữ Đinh trên mặt bằng cao hơn 80cm. Trong Đền Chi Cát không còn lưu giữ được
Ngọc phả do trải qua nhiều bôn ba bão táp của khói lửa chiến tranh chống thực
dân Pháp.
Song dựa trên nhiều cơ sở sưu tầm của các tài liệu thư tịch
Đại Nam Thống Nhất Chí – Việt Đại U Minh; Tìm hiểu lịch sử về các vị thần như
Cao Thổ Đại Vương tại Đền Tam Giang Bạch Hạc, Đền Tam Giang và Đền Chi Cát là
nơi kết nghĩa anh em từ thủa xa xưa. Đền tam Giang thờ Thần Cao thổ Đại Vương
có tên là Thổ Lệnh. Cổng Đền Chi Cát thờ Thần Bạch Thiên- Hiển thánh có tên là
Thạch Khanh.
Từ thủa xa xưa nước Việt ta thời Hùng Vương thứ 18, ở đất
Hoan Châu- Nghệ An, có hai vợ chồng họ Trần tên Thiệu, vợ họ Nguyễn tên Lân.
Nhà rất giầu có lại nhất mực trung hậu, hiền hòa, đức độ luôn giúp đỡ người
nghèo khó, diệt trừ hung ác cứu người.
Tuổi đã cao mà chưa hề có con. Hai ông bà đi hầu tự khắp mọi
nơi, khi đến chùa Yên Hoa, Đền Ung Sơn làm lễ cầu xin được thần báo mộng thì bà
Lân có thai, đúng vào ngày 10 tháng 03 năm Tân Hợi thì bà sinh được 2 người con
trai khôi ngô tuấn tú.
Ông bà Trần Triệu Nguyễn Lân mừng quá liền đặt tên cho hai
con là Lan và Ngọc. Năm lên 9 tuổi hai anh em học ông Lý Đường tiên sinh, học
ba năm thì thiên kinh vạn quyến đã hiểu, thông minh tài giỏi hơn người, bạn bè
đều kính phục coi như thần đồng giáng thế. Đến năm hai anh em 19 tuổi thì bố mẹ
qua đời, để tang và thờ phụng bố mẹ trong 3 năm xong hai anh em bàn nhau khăn
gói hành trang đi chu du thiên hạ ngắm cảnh sông núi non nước.
Một hôm hai người nghe
nói ở trên núi Tản của Tản Viên Sơn Thánh, Ba Vì ngày nay có rất nhiều thần
tiên tụ họp. Hai ông quả nhiên thấy phong cảnh thần diệu tối linh, thế rồi hai
ông trèo lên núi thì gặp một vị thiền sư đang ngồi trên bàn đá lại có Thánh Đồng
đứng hầu, hai ông vái lạy Thiền Sư xong thì trình tâu ý nguyện của mình và từ bỏ
giàu sang phú quý để đến với Đức Phật Quảng đại từ bi giúp đời, cứu người.
Được Thiền Sư chấp nhận cho theo học, khi hai người thành đạt
thì Thiên Sư lấy ra hai vật quý cho hai ông và dặn: Ta cho các người một cây gậy
trúc và một bầu đá, đầu trên gậy cứu người sống, đầu dưới trừ ác quỷ, bầu đá
dùng để chữa bệnh, người nào có bệnh khó chữa thì lấy gậy gõ vào bầu đá có vật
gì rơi ra thì lấy vật đó ngâm rượu uống rồi sẽ khỏi, nói xong thì Thiền Sư biến
mất. Để tỏ lòng biết ơn và hậu tạ Thiền Sư về sau hai ông đổi tên thành Thổ Lệnh
là em, Thạch Khanh là anh.
Cho đến đời nhà Trần, Trần Hưng Đạo đánh quân Nguyên xâm lược,
khi Ngài qua ngã ba sông Bạch Hạc. Thổ Lệnh và Thạch Khanh ngầm theo giúp Trần
Hưng Đạo. Nhà Trần sắc phong cho Hai ngài là Hộ quốc Bảo dân Đại Vương và sắc cho
Bạch Hạc- Chi Cát cùng nhiều địa phương khác, đời tiếp đời thờ tự từ đó cho đến
ngày nay.
Đền Chi Cát thờ Cao quan Đại Vương, húy là Thạch Khanh, đã
có công chu du thiên hạ tìm các phương thuốc chữa trị bệnh tật cho muôn dân. Khi mất hai vị rất
linh ứng, ngầm giúp các tướng lĩnh đánh giặc ngoại xâm giữ nước.
Hiện nay trong Đền Chi Cát còn lưu giữ 01 quả Chuông đồng
kích cỡ cao 1m đường kính 0,5m; thân Chuông là 2 thân rồng uốn tròn dấu vào
nhau; thân Chuông đúc nổi hình hoa cúc, các hình gờ nổi chia thân Chuông thành
các băng ô; 3 mặt trên thân Chuông khắc đầy chữ Hán.
Tượng thờ ngài Thạch Khanh
bằng đất sét cao 1m, nhưng được tạo tác rất thành công cả về mầu sắc lẫn dáng dấp,
hồn tượng và tính chất nhân vật lịch sử.
Tượng thờ ngồi trên ngai gỗ, lưng tựa thành ngai có hai đầu
rồng vươn ra phía trước, nét mặt nhân từ, phúc hậu miệng thoáng mỉn cười, thân
khoác áo bào đai trễ, đắp nổi tứ linh, thiếp vàng rực rỡ, chân đi hài cong. Thạch
Khanh được tạo dáng nhân từ, đôn hậu như sẵn sàng chỉ thuốc trị lâm để cứu con
người qua cơn thập tử trở lại tái sinh, song cũng toát lên dáng vẻ cương trực
hiển ứng linh thiêng của vị thần linh thiêng Bạch Thiên Hiển Thánh. Ngoài ra
còn có Lư Hương Đồng; Bộ Chấp Kích và Bức cuốn thư.
Hàng năm Đền Chi Cát có các ngày tiệc chính; ngày 15/01 âm lịch
Lễ Thượng Nguyên; Ngày 21/5 âm lịch Lễ Trung Nguyên; Ngày 15/10 âm lịch Lễ Hạ
Nguyên.
Nằm trong khu vực “Kinh đô Văn Lang” xưa Đền Chi Cát với những giá trị lịch sử của mình, thực sự
có một ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục truyền thống, làm phong phú truyền
thống văn hóa lịch sử của một miền quê và có giá trị trong hệ thống du lịch
vùng đất Tổ.
Được sự quan tâm của chính quyền địa phương, cùng với lòng
ngưỡng mộ của nhân dân địa phương, Đền Chi Cát mới được khôi phục, tôn tạo. Đền
Chi Cát có một kiến trúc chắc khỏe, nội thất đẹp; một khuôn viên được quy hoạch
cẩn thận với không gian thoáng đãng nhiều cây xanh, đảm bảo sự tôn nghiêm của một
ngôi Đền thờ.
Di tích Đền Chi Cát-
Phường Tiên Cát đã được vào sổ kiểm kê danh mục di tích tỉnh Phú Thọ năm 1964
và 1997; được công nhận là Di tích văn hóa lịch sử cấp Tỉnh theo Quyết định số
2563/QĐ-UBND ngày 10/8/2001./.