Đền Chính Đa Hòa, huyện Khoái Châu Hưng Yên là ngôi đền thứ hai thờ phụng Thánh Chứ Đồng Tử và Nhị vị Thánh Nương. Ngôi cổ tự nổi tiếng linh thiêng, là nơi chiêm bái của quan chức nhiều triều đại và dân thương lái trên sông.
Có tên gọi như vậy vì đền nằm trên địa phận làng Đa Hòa. Gọi
đền Chính, là cách nói ngắn gọn rút từ mấy chữ Đa Hòa Chính Từ như trong sắc
phong, viết trên hoành phi, trên long vị cũng như trong văn tế "Đa Hòa
Chính từ thượng đẳng tối linh thánh hoàng tam vị ".
Cũng có người gọi thẳng đây là đền thờ Chử Đồng Tử. Trên một
bức hoành treo ở giữa gian đại tế đền hiện nay có 4 chữ "Nhất Dạ Trạch từ
" (Đền thờ thần Đầm - Một - Đêm).
Đền Chính Đa Hòa (hiện nay) được xây dựng năm 1894. Căn cứ
vào tấm bia đá dựng tại Trấn Giang Lâu trước cửa đền "Trùng tu Đa Hòa
chính từ bi ký " thì đây chỉ là tu sửa lại một ngôi đền cũ. Vậy đền này có
từ bao giờ? Có lớn không? Tại sao đã có đền Dạ Trạch ngay đầu dốc Vĩnh (thôn
Vĩnh mới từ Đa Hòa tách ra hơn 100 năm nay) lại còn xây thêm đền Đa Hòa này nữa?
Ai cũng biết hàng năm, các triều vua đều cử quan đại thần về
đền Hóa làm lễ dâng hương. Chỉ một số đền, đài có vinh dự này, gọi là tế
quốc điển. Việc tế lễ đức thánh Chử thường tổ chức vào mùa xuân, tiết trời còn
mưa rét.
Các quan từ kinh thành Thăng Long xuống thuyền xuôi dòng sông
Nhị, đến bến Đa Hòa thì lên bộ. Từ đây còn phải võng lọng quanh co, qua nhiều lối
mòn, bãi lội, rừng sậy, phải lên thuyền nhỏ lướt trên mặt đầm mới vào tới đền
Hóa.
Cũng từ xa xưa, tại bến Đa Hòa nơi nhìn thẳng sang bãi Tự
Nhiên bên kia sông Hồng, dân chài lưới lập một hành đài thờ Chử Đồng Tử -
Tiên Dung. Các nhà buôn mỗi lần đi qua đây để lên Kẻ Chợ hoặc xuống Phố Hiến cất
hàng, bán hàng đều dừng thuyền lên đền thờ vọng này thắp hương khấn cầu Chử
Đồng Tử - Tiên Dung phù hộ.
Các quan, có năm không vào được đền Hóa, tổ chức lễ dâng
hương ngay tại hành đài này. Ngôi đền nhỏ, cheo leo trên bờ sông dốc đứng nhưng
ngày đêm rực rỡ hương đăng, tấp lập khách thập phương lễ bái.
Chính trên cơ sở ngôi đền này, năm 1894, tiến sĩ Chu Mạnh
Trinh, người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở đã xuất thần nảy ra ý tưởng xây dựng hành
đài trở thành một ngôi đền lớn, đền chính.
Chu Mạnh Trinh khiêm tốn khắc vào bia đá rằng đây chỉ là một
sự tiếp nối, trùng tu, thực ra, ông đã thiết kế chỉ huy xây dựng một ngôi đền
hoàn toàn mới, lớn và đẹp hơn hẳn đền cũ, với ý đồ táo bạo nhằm biến nơi này
thành một thắng cảnh, di tích lịch sử đồng thời là một nơi mở hội rước, thỏa
mãn nhu cầu văn hóa dân gian.
Ở đền Chính Đa Hòa hiện còn giữ lại đôi câu đối cổ, chữ đã
mòn, mờ, lạc khoản ghi rõ "Mễ Sở hương, thái úy Trần Ngô Lương bái tiến "
và " Mễ Sở hương đội trưởng Trần Dư bái tiến ".
Trần Ngô Lương làn quan thái úy dưới triều Trần Dụ Tông có
công dẹp loạn Dương Nhật Lễ, là thành hoàng làng Nhạn Tháp, tổng Mễ Sở. Trần Dư
người làng Phú Thị, cùng Hoàng Diệu bảo vệ thành Hà Nội. Thành thất thủ, ông tuất
tiết, không chịu để quân Pháp bắt.
Về hình thức, hai đôi câu đối này chỉ cao khoảng hai thước
ta (80cm) chứng tỏ hành đài khi xưa chỉ là một cái đền thấp nhỏ. Khác hẳn so với
hôm nay, đền Chính Đa Hòa, trên cổng ngọ môn nổi bật những chữ vàng "Bồng
lai cung khuyết " (Nhìn từ ngoài vào) và "Cận thủy lâu đài "
(nhìn từ trong ra ) !
Đền Chính Đa Hòa xây theo hướng chính Tây, trên một bãi đất
bằng phẳng hình chữ nhật, rộng 18.720 mét vuông. Các công trình kiến chúc chia
làm ba khu vực: khu ngoài, khu giữa và khu trong.
Khu ngoài: Rộng 7.200 mét vuông, khoáng đạt, không có tường
rào bao quanh. Kiến trúc chủ yếu của khu ngoài là nhà bia. Đây là một cái lầu,
cửa trổ ra tất cả bốn hướng, hai tầng, tám mái, mang những thông số dịch học.
Nhà bia dựng ngay trên kè đá sát mép bờ sông dốc cao, chống
lại những đợt lũ sói mòn cho đến khi bị sạt lở. Kè đá là trấn giang biên. Còn
nhà bia, cửa tây nhìn thẳng ra mặt sông tự tay Chu Mạnh Trinh viết ba chữ đại tự Trấn
Giang Lâu.
Nhưng sở dĩ người thường nôm na gọi nhà bia vì chính tại lầu
Trấn Giang này, có dựng bia đá trùng tu đền Đa Hòa nhưng là một áng văn tuyệt
tác ghi lại cuộc nhân duyên kỳ ngộ trên cát cỏ của Chử Đồng Tử - Tiên
Dung.
Nhà bia quanh năm lộng gió. Đứng trên nhà bia, phóng tầm mắt
nhìn nước sông Hồng cuồn cuộn chảy bên dưới và xa kia, bãi cát tự nhiên phẳng lỳ,
lơ thơ vài khóm lau. Trời đất đã chọn nơi này cho tình yêu, hạnh phúc con người
nảy sinh, nguyên thể, hoàn toàn.
Từ nhà bia, một con đường lát gạch rộng 6m dẫn thẳng vào
trong đền, hai bên là hai hàng cây thiêng, loại cây gạo thân trắng bạc, mọc vút
cao. Đặc biệt vào ngày 10/2 âm, ngày đền mở hội, cây trút sạch lá, nở đầy cành
những bông hoa rực lửa như hai hàng đèn treo ngang trời, như những mâm lễ vật
dâng tiến.
Những cây gạo này đều có tuổi thọ ngang tuổi ngôi đền. Chỉ
nhìn hoa gạo nở, mọi người biết tin vui báo hiệu xuân về, báo hiệu cho những
chàng trai con cháu nhà Chử, những Thạch Sanh, những cô Tấm và cả những nàng Thị
Mầu khao khát yêu đương hãy mau mau sửa soạn về dự lễ hội Đền Tình Yêu.
Khu giữa: Rộng 3.400 mét vuông. Khu giữa và khu
trong có tường thấp bao quanh gợi nhớ dãy tường thành lũy của một thời quá khứ.
Khu giữa được mở ra từ cổng đền là hai cột trụ cao,
xây thẳng vút, trên mỗi đỉnh cột là một con nghê ngoảnh mặt vào lối đi, ngày
đêm canh gác ngôi đền.
Dọc hai cột trụ là hai câu đối có ý nghĩa như câu mở
đầu một bài Đường Thi, như lời giới thiệu trước khi du khách bước vào thế giới
tâm tưởng:
"Phượng giá hồng
sơn kim đỉnh đan thành phong vũ dạ
Hạc quy hoa biểu ngọc
tuyết linh bí thủy vân gia".
Lược dịch:
"Phượng tới non
hồng, nơi luyện thuốc tiên trong đêm mưa gió
Hạc về cõi tiên, tuyết
ngọc rực rỡ nơi nhà nước mây".
Từ cổng đền, con đường gạch mở rộng 8m, chia khu giữa
thành hai khu nhỏ với những tán đa - cũng một loại cây thiêng, bất tử - những
vòm nhãn xanh thẫm, giống cây đặc sản của Hưng Yên. Và trong vòm nhãn xanh đậm,
ẩn hiện bên phải: lầu chuông, bên trái: gác khánh.
Chuông đền Chính đúc bằng đồng, cao 1.5m. Khánh bằng đá, chiều
ngang 1.2m. Lầu chuông, gác khánh đều xây một kiểu giống nhà bia, nhấn đậm lần
nữa tư duy triết học Dịch.
Một năm chỉ có vài lần chuông, khánh đền Chính ngân nga.
Nghe trống tế giục giã, nghe chuông, khánh dập dìu, trai gái hai bờ sông Hồng đổ
về dự hội đền, xem rước. Ngày hội tan, các cụ già chống gậy lên đê ngồi nghe
chuông khánh đền Chính vang vọng tiễn Thánh về trời.
Khu trong: Đây mới là khu trung tâm, là kiến trúc đặc sắc chủ
yếu của thắng cảnh Đa Hòa.
Mở đầu là Ngọ Môn cao, rộng, gồm ba gian, ba cửa. Cửa chính
chỉ mở trong những ngày đại lễ. Cổng Ngọ môn treo bức đại tự bốn chữ lớn sơn
son thiếp vàng "Bồng lai cung khuyết ". Bước qua Ngọ môn là bước
vào thế giới của tâm tưởng, của Tiên, của Đạo.
Toàn bộ cung điện thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung bao gồm 18 nóc
đền tượng trưng cho 18 đời vua Hùng. Các nóc đều hình con thuyền, mũi cong,
chia từng khoang đều đặn. Từ dưới sông nhìn lên, từ trên đê nhìn xuống đều thấy
các mái đền nối tiếp nhau như một đoàn thuyền đang nhấp nhô ẩn hiện.
Đoàn thuyền của nàng công chúa Tiên Dung 18 tuổi trôi về đây
hay đã dừng chèo cắm sào nơi này vì công chúa vừa lên bờ đang từng bước đi trên
cát tự nhiên, dạo mở cái giây phút thiêng liêng đất trời âm dương hòa hợp.
Qua sân Đại là nhà Đại tế, tiếp đến sân Chầu, tòa
Thiên Hương bấy giờ mới tới cung Đệ Nhị, cung Đệ Tam và Hậu Cung. Nối liền các
nóc là thảo xá, thảo bạt, nhà ngựa, nhà pháo... đối diện nhau qua sân Đại, sân
Chầu. Đây là kiến trúc kiểu cung đình thời nhà Nguyễn, thế kỷ 19, lại biểu hiện
rất rõ sự dung hợp hài hào giữa Phật giáo, Nho giáo, Đạo giáo, đậm đà màu sắc
dân tộc Việt Nam.
Nét độc đáo của khu đền là tòa Thiên
Hương (hương trời). Một lần nữa tác giả công trình nhấn đậm tiết lý Dịch học với
tám mái cong, hai tầng, tám cột gỗ vuông đỡ ở bốn góc. Các đấu kê xà ngang, xà
dài được đẽo gọt hình "con vác" mặt rồng, mình sư tử. Còn các búp sen
đều nghiêng xuống như Trời đang ban hương xuống cho chúng sinh.
Tòa Thiên Hương treo bức đại tự ba chữ lớn, sơn son
thiếp vàng: Giao Quang Các (nơi ánh sáng hội tụ).
Một đôi câu đối, chỉ với 36 từ nhắc lại mối nhân
duyên kỳ ngộ ngàn năm trước của Chử Đồng Tử - Tiên Dung:
"Hóa cảnh thị hà miên, tự nhiên vi châu, nhất dạ thành
trạch
Kỳ duyên khoáng thiên cổ, nhân gian phu phụ, thiên thượng thần
tiên ".
Dịch nghĩa:
"Cánh đẹp hóa bên sông, bãi cát thành châu ngọc, một
đêm thành đầm nước
Duyên kỳ ngộ ngàn năm trước, cõi trần gian là vợ chồng, trên
trời cao là thần tiên ".
Trong cung Đệ Nhị, Đệ Tam có nhiều bức hoành, bức
trâm, câu đối lời, ý văn hoa hàm súc, khẳng định vị trí thần thánh của Chử
Đồng Tử - Tiên Dung: "Nam Hải dị nhân ", "Hộ quốc an dân ",
"Danh cao thiên cổ "...
Ở đây có bàn thờ thân phụ, thân mẫu Chử Đồng Tử,
ban thờ Công Đồng, hai dãy ban thờ hướng vào chính diện trên để 8 bát nhang thờ
thành hoàng 8 xã của tổng Mễ Sở xưa. Ngày hội, các xã rước kiệu thành hoàng
làng mình về đây, làm lễ thánh. Trong 8 xã, xếp theo thứ tự Mế Sở là anh cả, Đa
Hòa là chạ trưởng, Hoàng Trạch là em út, các xã xếp theo thứ tự là Nhạn Tháp,
Phú Thị, Bằng Nha, Thiết Trụ, Phú Trạch.
Hiện nay đền Chính Đa Hòa lưu giữ nhiều hiện vật cổ:
- Đôi lọ Bách. Gọi thế vì đây là hai chiếc lọ nghệ thuật gốm
cổ, nhiều màu sắc, vân hoa nổi 100 chữ thọ (bách thọ) mỗi chữ một kiểu, một nét
khác nhau. Đôi lọ gốm thời nhà Lý, rất tiếc, năm 1987 kẻ gian lấy trộm mất một
chiếc. Bị truy lung gắt gao chúng phải đem giả, nhưng khi ông từ ra nhặt lên
thì chỉ thấy nhiều mảnh vỡ trong chiếc bao đay.
- Hai đôi câu đối cao chừng 80 cm, lạc khoản ghi "Mễ Sở
hương, thái úy Trần Ngô Lương bái tiến " và " Mễ Sở
hương đội trưởng Trần Dư bái tiến ".
- Các ngai thờ, công trình điêu khắc gỗ thế kỷ 17, 18.
- Văn bia, bút tích Chu Mạnh Trinh.
- Tại ban thờ nhà thơ Chu Mạnh Trinh, công trình sư đền Đa
Hòa, là thần hộ đền, có cây đàn thập lục sinh thời ông từng gảy.
- Các kiệu bát cống, thất cống, khám, ngai, ỷ thờ... hạc đồng,
đỉnh đồng... Chiếc vạc đồng rất lớn đặt trước tòa Thiên Hương, có hai rồng cuốn
hai bên.
Và đặc sắc nhất, trong hậu cung là tượng thờ Chử
Đồng Tử - Tiên Dung - Nội Trạch Tây Cung. các pho tượng có độ cao, ngang bằng
nhau, ngồi trên ngai sơn son thiếp vàng, trạm bong kênh rất tinh sảo.
Ngồi giữa là Chử Đồng Tử, đầu đội mũ có chữ
"vương" nét mặt thông minh, thuần phác. Hai bên là nhị vị phu nhân, đầu
đội mũ nữ hoàng, khuôn mặt nhân hậu hiền thục.
Điều đáng kể ở đây có những 6 pho tượng, đều là tượng
đức thánh Chử và Nhị vị phu nhân, ba pho tượng bên trong bằng đồng.
Vậy tại sao có những 6 pho tượng ?
Theo nhân dân vùng này kể lại thì sự việc như
sau:
Thế kỷ 17 - 18 là những năm đất nước ta rối ren nhiễu nhương
nhất. Nhân dân cả nước khổ vì Nam, Bắc phân tranh. Riêng ngoài Bắc Hà, chúa Trịnh
ăn hiếp vua Lê, để mặc kiêu binh hoành hành. Rồi quân Tây Sơn kéo ra mấy lần.
Tiếp đến loạn Cống Chỉnh. Nông dân nhiều nơi khởi nghĩa. Quân xâm lược
Mãn Thanh ồ ạt kéo vào...
Năm ấy Cống Chỉnh (Nguyễn Hữu Chỉnh đỗ hương cống nên thiên
hạ gọi là Cống Chỉnh) bỏ Thăng Long vào giúp anh em Tây Sơn kéo quân ra Bắc diệt
Trịnh. Đến khi diệt được họ Trịnh rồi, Cống Chỉnh lại phản nhà Tây Sơn, muốn lập
cõi riêng nên bị Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra giết chết.
Theo các cụ già tổng Mễ Sở kể lại thì để chuẩn bị chống quân
Tây Sơn, Cống Chỉnh cho lính đi khắp nơi vét sạch các thứ đồ đồng trong đó có cả
ba pho tượng đồng ở đền Đa Hòa về đúc súng. Vì ba pho tượng "rất
thiêng" nên chúng thổi lửa ba ngày ba đêm đồng không chảy.
Quân Cống Chỉnh sợ hãi bỏ chạy. Trong khi đó dân trong vùng
lại tô ba pho tượng mới, đưa lên thờ. Khi vua Tây Sơn dẹp xong giặc Mãn Thanh,
có sức cho các nơi biết làng nào có ba pho tượng đồng trôi dạt trên bãi cát
sông Hồng ngoài thành Thăng Long thì lên nhận đem về. Nhiều nơi nhận tranh
không được. Chỉ khi dân tổng Mễ lên thì các Ngài mới thuận cho rước về.
Cũng truyện truyền miệng trong vùng Mễ Sở thì câu
chuyện mất tượng kể tương tự trên đây nhưng thời gian xảy ra lại vào cuối thế kỷ
19, đầu thế kỷ 20 này.
Giặc Pháp lấy cớ dẹp nghĩa quân Bãi Sậy đã phá nhiều đền
chùa và lấy đi những pho tượng quý trong đó có ba pho tượng đồng Chử Đồng Tử và
Nhị vị phu nhân. Do sự đấu tranh của nhân dân, chúng không mang đi được mà phải
để lại ở Hà Nội và thông báo các nơi biết làng nào có tượng thì đem về.
Tất nhiên các cụ bô lão nhiều làng lên nhận, nhưng chỉ
có người ở 8 xã tổng Mễ nói đúng sự tích và đặc điểm nên rước được ba pho tượng
xuống thuyền chở ngay về đền Đa Hòa.
Trong khi ấy, để hương đèn đền Đa Hòa khỏi lạnh lẽo, dân xã
đã cho tạc ba pho tượng mới, đặt lên ngai thờ. Có một làng nhất định cho
rằng ba pho tượng đồng là của chính đền làng mình, nay bị Đa Hòa cậy thế mạnh
người đông cướp mất, giữa hai làng, vì thế thù nhau mãi...
Hiện nay cả 6 pho tượng đều đặt trong khám thờ ở Hậu
Cung đền Đa Hòa, Năm 1968 máy bay giặc Mỹ ném bom phá hỏng 5 nóc đền, một quả
rơi ngay phía sau Hậu Cung sạt mái ngói, rất may bom không nổ.
Hội đền Chính Đa Hòa là một hội lớn, vô
cùng phong phú, vui náo nhiệt là niềm tự hào chung, là biểu tượng đoàn kết, gắn
bó chặt chẽ cư dân cả vùng này.
Hội đền Chính Đa Hòa là một sinh hoạt văn hóa tổng
hợp bao gồm: rước, các cuộc thi đấu văn hóa thể thao(đấu vật, chọi gà, bơi chải,
cầu lông...), các sinh hoạt văn nghệ quần chúng (tuồng, chèo...), có năm tổ chức
thi thơ.
Đám rước thần từ sáng sớm, tại 8 ngôi đền ở 8 xã, nhân
dân địa phương tập hợp, chuẩn bị rước thành hoàng xã mình đi dự hội đền chính
Chử Đồng Tử - Tiên Dung. Như vậy là có 8 đám rước từ các làng tiến ra,
lên đường lớn, hợp với nhau. Mỗi đám rước có những nét chung và những đặc trưng
riêng của thành hoàng làng.
Tám đám rước từ tám ngả tiến ra. Các Thánh gặp nhau chiêng
trống vang rền, pháo nổ giòn giã. Do đường xa nên kiệu rước đức Thánh anh cả,
Thánh Mễ Sở phải đi nhanh.
Lúc này gọi là kiệu bay. Nếu đám rước thành hoàng nào đi trước
thì sẽ phải rạt ra một bên nhường đường cho các giai đồ kiêng kiệu thánh
Mễ Sở vượt lên trước. Trước khung cảnh hào hùng, người xem hội đông hàng ngàn đứng
hai bên bờ đường khi giạt ra, lúc xô vào chắp tay vái lạy, miệng khấn suỵt soạt.
Tùy theo đặc điểm của mỗi vị thành hoàng mà đám rước có đặc
trưng riêng. Thành hoàng Mễ Sở tục gọi thánh Pháo, vì vậy suốt dọc đường
kiệu rước pháo đốt liên tục.
Đám rước của thành hoàng lang Phú Thị có con rồng vàng cuộn
khúc lượn theo. Thành hoàng làng Đa Hòa, Thiết Trụ, Nhạn Tháp... là các vị tướng
nên đám rước có voi, ngựa tiền hô hậu ủng.
Có đám rước có tới hai, ba phường bát âm. Có đám rước
cho "con đĩ đánh bồng" vừa đi vừa múa bày trò cho thiên hạ xem. Hai
"con đĩ " là hai thanh niên giả gái má phấn môi son, đầu chịt khăn mỏ
quạ, yếm đào đôi vú xổng xểnh, thắt lưng xanh, áo dài vạt đỏ vạt vàng, váy thắm
phô cái đít cong. Cả hai vừa nhảy múa vừa ưỡn ẹo hai tay gõ đập hai mặt chiếc
trống tròn dài như cái gối, đeo trước bụng.
Sau này đám rước có thêm sư tử, ông địa cũng là trò
vui, trẻ con chạy theo reo hò ầm ĩ.
Những ngày lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên Dung các sới vật
đông nghịt người xem, không ngớt tiếng trống "cắc, tùm", tiếng hò reo
cổ vũ đấu sĩ.
Cuộc đua chải cũng rất hấp dẫn. Sông Hồng tháng xuân nước lặng,
mỗi xã một chải, mỗi chải có 10- 12 tay chèo dưới sự điều khiển của "ông cốc
". Cũng ở hội đền Đa Hòa còn tổ chức nhiều cuộc thi đấu võ,
múa gậy và đánh gậy, thi chọi gà, vui nhất là thi đấu cờ tướng.
Thi đấu Cờ tướng với quân cờ là những cô gái đẹp.
Cả sân đền rộng biến thành bàn cờ. Quân cờ là những cô gái đẹp,
đẹp nhất là hai vai tướng ông, tướng bà. Kỳ thủ các nơi về đây đọ tài cao thấp.
Sau mỗi tiếng trống hiệu, các quân xe, pháo, mã, tốt xiêm y lộng lẫy, đi lại uyển
chuyển. Người dự hội thỏa mãn vui cười.