Khi vua Lê Thánh Tông (1460 - 1496) đem quân đánh Chiêm Thành ông đã dừng chân, nghỉ lại ở địa phận xã Cự Linh, được thần Trấn Vũ ứng mộng. Vua cảm thấy xúc động, liền sai dân lập đền thờ, cho tạc tượng gỗ cùng bài vị ghi Hiển Linh Trấn Vũ quán.
Nhiều người thường nhắc đến tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh
(Ba Đình, Hà Nội), ít ai biết được ở thôn Ngọc Trì, xã Thạch Bàn (Long Biên)
còn có pho tượng đồng nặng 4 tấn được thờ trong đền Trấn Vũ. Tượng được công nhận
là bảo vật quốc gia vào tháng 12/2015.
Đền Trấn Vũ - nơi đặt tượng được dựng trên thế đất linh quy
xà hội tụ, quay mặt về phương Bắc. Trên cánh đồng Ngọc Trì có gò đất hình con
rùa nổi lên. Sau đền là đê sông Hồng, tượng trưng cho con cự xà (rắn lớn) quấn
quanh. "Vì vậy, tượng Trấn Vũ và ngôi đền được cho là linh thiêng nhất
vùng này, người dân thờ kính".
Ngôi đền tọa lạc tại phường Thạch Bàn, quận Long
Biên, theo thần phả thì nguồn gốc và niên đại của pho tượng Huyền Thiên
Trấn Vũ được ghi chép như sau:
Khi vua Lê Thánh Tông (1460 - 1496) đem quân đánh Chiêm
Thành, vua đã dừng chân, nghỉ lại ở địa phận xã Cự Linh, được thần
Trấn Vũ ứng mộng. Vua cảm thấy xúc động, liền sai dân lập đền thờ,
cho tạc tượng gỗ cùng bài vị ghi Hiển Linh Trấn Vũ quán.
Vua lại gia ân, ban cho dân sở tại một số ruộng đất
để phục vụ hương hỏa cho đền. Đến năm Đinh Mão, niên hiệu Cảnh Hưng
(1747) dân làng đã đúc tượng đồng, thay thế tượng gỗ. Tuy nhiên, nhiều
người đến đây chiêm bái cảm thấy tượng chưa xứng với quy mô của đền.
Do đó, đến năm Mậu Thân (1788) nhân dân sở tại đã hưng
công đúc lại tượng Trấn Vũ, năm Nhâm Tuất (1802) thì hoàn thành.
Tượng này vẫn tồn tại đến ngày nay.” (Trấn Vũ điện bi ký, dựng năm
Minh Mệnh nguyên niên 1820).
Bia Huyền Thiên thượng đế bi kí khắc năm Mậu Thìn,
niên hiệu Bảo Đại thứ 3 (1927) ghi “Trong quán Trấn Vũ trước đây thờ
bài vị, đặt trên long ngai. Bài vị khắc 5 chữ “Hiển Linh Trấn Vũ
quán”, bên cạnh bài vị này khắc 5 chữ “Phủ Vương phủ tín cúng” (Phủ
Phú Vương cung tiến).
Dưới thời Lê Thánh Tông, Vua đã ban chiếu cho tạc
tượng gỗ để phụng sự. Sau đó, khoảng 292 năm, dưới thời Lê Hiển Tông,
vào năm Đinh Mão, niên hiệu Cảnh Hưng thứ 8 (1747), tượng gỗ bị hư
hỏng, vâng lệnh Vua, các quan hợp sức với dân Ngọc Trì đúc lại tượng
đồng phụng sự”.
Pho tượng thần Trấn Vũ ở Thạch Bàn (Long Biên) nguyên khối bằng
đồng, nặng 4 tấn có nhiều nét tương đồng tượng Trấn Vũ ở đền Quán Thánh (Ba
Đình). Ảnh: Hoàng Phương.
Hai văn bản cách xa nhau một thế kỷ, được viết bởi
hai lối hành văn khác nhau, nhưng đều phản ánh một sự thực lịch sử,
đó là có một tượng Trấn Vũ ở ngôi đền này, khởi đầu bằng gỗ, sau
bằng đồng và dẫu rằng, văn bản sau không nhắc đến, nhưng sự xác tín
của văn bản có niên đại sớm hơn (1820), để người đọc có thể tin
rằng, pho tượng to lớn hiện nay đang thờ ở đền Cự Linh được đúc vào
năm 1802 là hoàn toàn có cơ sở.
Sự hình thành của ngôi đền và pho tượng trong quá khứ,
quả là một thiên sử, đáng để ngợi ca và tôn vinh, chưa nói gì đến
tác phẩm vô cùng hoành tráng và độc đáo này, do cha ông để lại.
Tượng ngồi trên bệ được xây khối hình hộp chữ nhật,
mang phong thái của Đạo sĩ, với hai chân buông xuống dưới, tay trái
bắt ấn, co ngang rồi khép trước ngực, tay phải tì trên đốc kiếm, cắm
thẳng xuống lưng rùa. Quấn quanh lưỡi kiếm là một con rắn trong tư
thế đang lao xuống đầu rùa.
Đầu tượng tròn, tóc ốp sát, tai to, mặt đầy đặn,
mắt khép hờ, mũi cân phân, miệng ngậm, râu dài, mình mặc áo giáp,
trên áo điểm hoa văn, hổ phù ở đầu gối được cách điệu hoa lá, ở
cánh tay là hoa văn tổ ong, hoa lá thiêng ở diềm áo, long mã ở bố tử
trước ngực.
Có thể nói, về tượng học, tượng Trấn Vũ ở Cự Linh
rất gần gũi với tinh thần dân gian, truyền thống của tượng Việt trên
chất liệu gỗ hay tượng đất trộn giấy bản, sơn son thếp vàng cùng
thời.
Chiều cao của tượng là 3,65m, vòng đai bụng có chu vi
3,43m, chiều rộng ngang 1,81m, rộng vai 1,41m, rộng khuỷu tay 1,65m. Với
kích thước này, trọng lượng của tượng có thể lên tới vài tấn, cho
dù đây là con số ước lượng, do không được cân đong vì kiêng kị của
tín ngưỡng.
Tay tượng thần Trấn Vũ cầm kiếm chống lên mai rùa, có rắn quấn
quanh. Ảnh: Hoàng Phương.
Theo truyền thuyết, Trấn Vũ vốn là một vị thần
trong hệ thần Đạo giáo, sau khi vào Việt Nam, đã được Việt hóa và
trở thành vị thần trấn giữ phương Bắc mà trong Thăng Long tứ trấn đã
thể hiện, nay còn để lại bốn di tích rất linh thiêng của Hà Nội.
Cũng với tinh thần Việt hóa, Trấn Vũ còn được thêm trách nhiệm của
vị thần chống lụt và trị thủy, do nhu cầu và ước vọng của cư dân
trồng lúa nước ở đồng bằng ô trũng Bắc Bộ. Và với sự hòa quyện
của tam giáo trong tâm thức của người Việt, Trấn Vũ còn được phong
thành Phật.
Chính vì lẽ đó, hình thức tạo tượng cũng đã được
Việt hóa để thích nghi với tinh thần và tín ngưỡng dân gian Việt, do
thế, tượng đã được tạo theo “Thánh tích” (sự tích của Thánh) và
trở thành một tác phẩm nghệ thuật có giá trị độc đáo quen, lạ
trong nghệ thuật của pho tượng này.
Tượng Trấn Vũ ở đền Cự Linh là một trong ba pho có
trọng lượng và kích thước lớn, bằng đồng hiện còn đến nay, không
chỉ riêng ở Hà Nội, mà của cả nước, ngoài Trấn Vũ ở Quán Thánh
và chùa/quán Huyền Thiên ở quận Ba Đình và Hoàn Kiếm.
Tuy nhiên, ở Cự Linh, tượng còn giữ được đậm đặc
tinh thần Việt với đặc điểm pha trộn giữa Phật – Đạo – Nho và tín
ngưỡng của cư dân nông nghiệp lúa nước, theo đó, rất gần gũi và thân
thiện với con người, cho dù đó là thần, thánh hay Phật.
Tượng Trấn Vũ ở Cự Linh có phong cách thuần hậu,
chất phác, là một trong những minh chứng cho bước chuyển tiếp của
phong cách tạo/đúc tượng thể khối lớn từ thời Lê Trung hưng sang đầu
thời Nguyễn, đồng thời cũng tiêu biểu cho quá trình Việt hóa về
hình hài và vai trò của một vị thần có nguồn gốc xuất xứ ngoại
lai sau khi du nhập vào Việt Nam.
Đền Trấn Vũ - nơi đặt pho tượng đồng bảo vật quốc gia. Ảnh:
Hoàng Phương.
Từ góc độ kĩ thuật, cho dù tư liệu chữ viết và
hiện vật đã xác nhận, Việt Nam có truyền thống đúc đồng khá sớm,
với văn hóa trống đồng Đông Sơn rực rỡ, với An Nam tứ đại khí thời
phục hưng Đại Việt, nhưng Trấn Vũ ở Cự Linh vẫn là một trong những
tư liệu sáng giá để các nhà nghiên cứu tìm hiểu về kĩ thuật đúc
đồng khối lớn mà sau này được kết tinh trong cửu đỉnh và những đồ
đồng thời Nguyễn hiện đang lưu giữ ở Cố đô Huế.
Năm 1802, Nguyễn Ánh lên ngôi đã trả thù nhà Tây Sơn, các cụ
già làng Ngọc Trì lo sợ tượng bị hủy hoại nên mang bộ khuôn đúc đi giấu và dựng
lên chuyện tượng đồng đưa từ nơi khác đến thờ.
Trải qua biến cố lịch sử, pho tượng đồng được nhân dân tìm mọi
cách gìn giữ nên hầu như không đổi khác so với ban đầu. Các cụ già thôn Ngọc
Trì kể lại, sau khi Nguyễn Ánh lên ngôi đã có những hành động trả thù nhà
Tây Sơn. Tượng vừa đúc xong, các cụ mang bộ khuôn đúc đi giấu ngay và dựng lên
điển tích tượng đồng được đưa từ nơi khác đến vì sợ bị hủy hoại.
Đến thời kỳ Pháp xâm lược, chúng nhiều lần định phá hủy tượng
thần, hun nóng cho chảy ra đồng nhưng vấp phải sự kháng cự của nhân dân,
quân lính cũng liên tục bị bệnh ốm chết, phải bỏ chạy. "Có lần địch
càn, cán bộ cách mạng còn chui vào trong đền, nằm gọn dưới chân tượng thần Trấn
Vũ. Địch vào sục sạo một hồi nhưng không phát hiện được, sau cũng không dám làm
càn chốn uy nghiêm nên cán bộ thoát".
Những năm chống Mỹ, đền trở thành nơi cất giấu vũ khí của bộ
đội phòng không, nơi hoạt động của cán bộ. Khi quân Mỹ leo thang bắn phá
miền Bắc, kho xăng Đức Giang, cánh đồng Ngọc Trì đều bị rải bom, thậm chí có lần
bom rơi trước cửa nhưng cả ngôi đền và pho tượng đều không bị hư hại.
"Ngôi đền lẫn pho tượng vài trăm năm rồi nhưng hầu như
không bị hư hại, chỉ phải sơn lại hai lần. Năm 1916, tượng bị rỉ do đồng có lẫn
nhiều tạp chất. Các cụ đã thuê thợ dùng sơn ta, pha thành sơn đen bảo vệ cho
con cháu thờ phụng muôn đời. Năm 2014, sơn bị bong tróc nhiều nên ban quản lý
đã làm đơn gửi Bộ Văn hóa xin được tu tạo màu sơn đen trước đó".
Ngoài đền Trấn Vũ ở thôn Ngọc Trì, thần Trấn Vũ còn được người
dân thờ phụng ở nhiều nơi như đền Quán Thánh (Ba Đình), chùa Huyền Thiên (Hoàn
Kiếm), quán Thụy Lôi (Đông Anh). Trong đó, tượng thần ở đền Trấn Vũ có nhiều
nét tương đồng với tượng ở đền Quán Thánh từ chất liệu, thần thái đến tay chống
kiếm. Nhà nghiên cứu di sản văn hóa Trần Lâm Biền nhận định, từ cách thức
tạo hình có thể thấy tượng Trấn Vũ ở hai ngôi đền ngoài trấn giữ phương Bắc, trừ
tà còn thể hiện thêm chức năng trị thủy của cư dân nông nghiệp.
Xưa kia, Ngọc Trì là làng nông ven đê sông Hồng, nay dần
chuyển sang buôn bán, đời sống nhân dân khấm khá. Trải qua thời gian, khát
vọng tâm linh của người dân không còn đơn thuần ở cầu cho mùa màng tươi tốt mà
chuyển dần sang cầu buôn bán thuận buồm xuôi gió. "Ước nguyện đó được hiện
thực một phần nên tình cảm của người dân dành cho thần Trấn Vũ rất trân trọng".
Mùng 1, ngày rằm, đền lúc nào cũng nghi ngút khói hương của
nhân dân trong vùng và khách thập phương về lễ bái. Vào ngày Tết, người dân đến
còn đông hơn.
Vào ngày 3/3 âm lịch hàng năm, dân thôn Ngọc Trì tổ chức lễ
hội, hay còn gọi là ngày Thánh Đản. Đây là lễ hội cầu mùa, mong no ấm. Trong
lễ hội có trò kéo co ngồi, tượng trưng cho ước muốn phồn thực, sinh sôi và thể
hiện sức mạnh trần gian trị thủy. Thần Trấn Vũ khi ấy trở thành niềm tin
tinh thần giúp cộng đồng có mùa màng bội thu, phù trợ con người chống lại
tai ương.
Tượng Huyền Thiên Trấn Vũ ở đền Cự Linh xứng đáng
là Bảo vật quốc gia và hy vọng điều đó sẽ thành hiện thực trong
tương lai không xa.
Tác giả Thanh Phương - Hồng Hải