Căn cứ vào sử sách còn lưu truyền, thì Đền Cuông (thuộc xã Diễn Châu – Nghệ An) là nơi chôn cất và thờ cúng An Dương Vương, một trong những vị vua ở buổi đầu dựng nước.
Đền Cuông thuộc địa bàn xã Diễn An, huyện Diễn Châu, cách
thành phố Vinh khoảng 30 km về phía Bắc, nằm trên núi Mộ Dạ, một ngọn núi thuộc
dãy Đại Hải, cận kề quốc lộ 1A.
Đền Cuông là một di tích lịch sử đã được Nhà nước xếp hạng,
đồng thời cũng là một danh thắng nổi tiếng – nơi kết hợp hài hòa giữa kiến trúc
và cảnh sắc thiên nhiên như thể đã có một sự thỏa thuận trước giữa tạo hóa và
bàn tay con người.
Sự tích về An Dương Vương cũng như chuyện tình của công chúa
Mỵ Châu với Trọng Thủy đã đi vào lòng người dân xứ Nghệ từ xa xưa. Căn cứ vào sử
sách còn lưu truyền, thì Đền Cuông (thuộc xã Diễn Châu – Nghệ An) là nơi chôn cất
và thờ cúng An Dương Vương, một trong những vị vua ở buổi đầu dựng nước.
Mối tình và sự kết thúc của một triều đại
Vua An Dương Vương Thục Phán nổi tiếng với tài binh lược và
đặc biệt gắn liền với ông là ngôi thành Cổ Loa huyền thoại. Không chỉ vậy, ngôi
thành này còn gắn liền với vị thần Kim Quy và nỏ thần. Bắt đầu từ đó, đất nước
Âu Lạc thời bước vào thời kỳ hưng thịnh và không lo nạn giặc ngoại xâm.
Vào cuối đời Tần, Triệu Đà gốc Hán chiếm cứ Uất Lâm (Quý Huyện
– Quảng Tây), Nam Hải (Quảng Châu – Quảng Tây), Tượng Quận (Quảng Tây), lập nước
Nam Việt, xưng vương đóng đô ở Phiên Ngung. Triệu Đà mang mộng xâm lấn mở mang
bờ cõi nên y nhiều lần đem quân nhằm thôn tính nước Âu Lạc, thế nhưng mấy lần
đem quân sang đều bị thất bại bèn lập kế cầu hòa.
Thục An Dương Vương không những chấp nhận mà còn gả con gái yêu là Mỵ Châu cho
Trọng Thủy, con trai vua Triệu Đà. Sau khi được “nhạc phụ” tin tưởng, Trọng Thủy
bắt đầu ý đồ ăn cắp lẫy nỏ thần và báo về cho vua cha.
Có lẫy nỏ thần trong tay, chắc thắng sẽ đánh bại Âu Lạc, Triệu
Đà hí hửng cất quân đánh. Do chủ quan có nỏ thần hộ mệnh, giặc đến sát chân
thành mà quân Thục vẫn đủng đỉnh không thèm nghênh chiến, nên thua to. Mất
thành, An Dương Vương cùng con gái chạy vào Nghệ An lánh nạn.
Đền thờ An Dương Vương (Đền Cuông) ở Diễn Châu, Nghệ An
nơi người dân xứ Nghệ tỏ lòng thành kính với vị vua An Dương Vương
Một số sách sử Nghệ An chép rằng: Sau khi vua mang theo con
gái là công chúa Mỵ Châu lên ngựa phóng về phương Nam, tới nơi bờ biển chắn
ngang, đường bị cắt đứt, đò giang không thấy bóng người, An Dương Vương kêu lên
rằng: “Trời đã bỏ ta, hỡi sứ giả đại giang mà ta đã gặp, hãy cứu ta!”.
Từ mặt nước, thần Kim Quy nhô lên và nói: “Bệ hạ đang mang
theo kẻ thù trên lưng ngựa. Cớ sao còn để làm gì?”. Thục An Dương Vương rút kiếm
định chém đầu Mỵ Châu, thì nàng khẩn khoản lạy thưa: “Nếu vì lòng phản bội mà hại
phụ vương thì sau khi chết con sẽ trở thành cát bụi. Nhưng có hiếu nghĩa mà chết
oan, thì con sẽ trở thành ngọc quý…”. Vừa dứt lời, An Dương Vương chém Mỵ Châu.
Công chúa Mỵ Châu nằm trên cát trắng, máu nàng chảy xuống biển,
những con trai hớp được, cô lại trong lòng thành ngọc quý lấp lánh kỳ diệu. Những
sự kiện trên diễn ra ở núi Mộ Dạ, tống Cao Xá, phủ Diễn Châu.
Như vậy, có thể thấy, dòng truyền thuyết về An Dương Vương
trên mảnh đất Nghệ An đã thu hút không chỉ những câu chuyện về các nhân vật
chính trong truyền thuyết mà ngay cả những mẩu chuyện về vết tích quân tướng của
vua Thục lưu lại nơi đây.
Đó có thể là chuyện về một hiện vật kỳ lạ (như chuyện tảng
đá gạo trên núi Mộ Dạ), hoặc là chuyện về nghề nghiệp làm vàng mã hay tục dùng
vàng mã trong cỗ bàn cúng tế.
Niềm tin về sự hiện diện của Thục phán An Dương Vương thuở
xa xưa đã ăn sâu vào tâm khảm những người dân xứ Nghệ. Dù là chuyện làm ăn, dù
là chuyện phong tục, dù là để lý giải những hiện tượng kỳ lạ của tự nhiên, họ đều
nhìn thấy ẩn hiện phía sau là bóng dáng vị vua huyền thoại ấy.
Đền Cuông được kiến trúc theo kiểu chữ “Tam”. Tam quan đồ sộ,
cổ kính rêu phong. Cổng giữa có ba lầu, chằng chịt rễ cây si đeo bám khiến cho
cảnh trí càng thêm u tịch. Tòa trung điện xây theo kiểu chồng diêm 8 mái, còn
các tòa khác trong đền đều có kiến trúc 4 mái, đầu đao cong vút.
Các công trình của đền đều đồ sộ, cột to, tường dày vững chãi nhưng không thô
vì các chi tiết, hoa văn được chạm đắp tinh tế toát lên vẻ đẹp thanh thoát. Đền
Cuông được xây dựng trên một vị trí thông thoáng, giàu chất sử thi. Trên núi Mộ
Dạ ngày nay là cả một cánh rừng thông bạt ngàn.
Sau núi là biển cả mênh mông, ngày đêm rì rào sóng vỗ. Ở
phía Bắc chân núi là cửa Tư Hiền gắn với sự kiện bi hùng của đất nước - nơi có
ngôi mộ công chúa Mỵ Châu. Từ đền Cuông nhìn về hướng Tây là núi Mụa có dáng
voi phục, đăm đắm chầu về đền.
Nhìn về tổng thể kiến trúc Đền Cuông được xây dựng theo kiểu
chữ "Tam". Trải qua hàng nghìn năm, tam quan hiện nay đã chằng chịt rễ
cây si leo bám, càng tạo nên nét cổ kính cho ngôi đền.
Tòa trung điện theo kiểu chồng diêm 8 mái, các tòa khác
trong đền đều có kiến trúc 4 mái, đầu đao cong vút. Các công trình đều đồ sộ, cột
to, tường dày vững chắc nhưng không thô vì các chi tiết, hoa văn được đắp, chạm
tinh tế, mà lại toát lên vẻ đẹp nhẹ nhàng, thanh thoát.
Thượng điện đặt ban thờ Thục An Dương Vương, qua khoảng sân
hẹp sang trung điện đặt ban thờ Cao Lỗ, tướng giúp vua chế tác nỏ thần.
Đền Cuông có nhiều di vật quý: trống, chiêng, tượng thờ, đồ
tế khí... Nơi đây còn lưu giữ nhiều tư liệu bằng chữ Hán trên các bức hoành
phi, cột, trụ biểu nhắc nhở con cháu, muôn dân luôn nhớ ân đức Thục An Dương
Vương.
Đền Cuông được xây dựng trên một vị trí thông thoáng, giàu
chất sử thi. Trên núi Mộ Dạ ngày nay là cả một cánh rừng thông bạt ngàn. Sau
núi là biển cả mênh mông, ngày đêm rì rào sóng vỗ. Ở phía Bắc chân núi là cửa
Tư Hiền gắn với sự kiện bi hùng của đất nước - nơi cha con Thục An Dương Vương
trên đường chạy giặc gặp bước đường cùng đã được Rùa Vàng hiển linh rẽ sóng mở
đường cho vua cha về với biển.
Tục truyền ở trên núi này có hơn 50 tướng sĩ của vua Thục
trong bước đường cùng đã tuẫn tiết ở đây. Theo truyền thuyết, sau khi chém Mỵ
Châu, An Dương Vương phi ngựa lên đỉnh núi Mộ Dạ. Từ trên đó, Ngài đã cởi mũ, cởi
cờ, cởi áo bào, tháo kiếm và yên ngựa rồi tung ra bốn phía. Kỳ lạ thay, tất cả
các thứ đó biến thành 5 ngọn núi có hình giống như cái mũ, cái kiếm, chiếc vành
khăn… châu tuần quanh núi Mộ Dạ. Không những thế,
Ngài còn dẫm mạnh chân xuống một tảng trên đỉnh núi và để lại
một vết chân rồi mới gieo mình xuống biển tự vẫn. Nơi ấy một thời gian sau nổi
lên phiến đá có hình bàn cờ tướng và dân đi biển thi thoảng vẫn thấy hình bóng
An Dương Vương cùng thần Kim Quy ngồi đánh cờ trên đó...
Trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, đền bị
hư hại khá nhiều, miếu thờ Mỵ Châu và tường của đền bị bom phá tan. Nhiều năm
liền lễ hội đền Cuông bị lãng quên.
Mãi đến năm 1990, nhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh của chủ tịch
Hồ Chí Minh, đền Cuông mới được trùng tu một cách quy mô, và “hoạt động” trở lại.
Năm 1995, sau một thời gian dài gián đoạn, Lễ hội đền Cuông được tổ chức trở lại,
với quy mô và tầm ảnh hưởng lớn, thu hút sự quan tâm của của không chỉ người
dân ở Nghệ An.
Thăm Đền Cuông trên núi Mộ Dạ bất chợt ngẫm câu thơ của Tố Hữu
“... Trái tim lầm chỗ để trên đầu/ Nỏ thần vô ý trao tay giặc/ Nên nỗi cơ đồ đắm
biển sâu” lại thấy thương cho Mỵ Châu và mối tình oan nghiệt của nàng.
Vào ngày đẹp trời, đứng trên núi Mộ Dạ phóng tầm mắt ra bốn
phương mới thấy được hết những điều kỳ thú của một vùng non xanh nước biếc hữu
tình. Sách xưa đã từng liệt kê trong số 8 cảnh đẹp của “Đông Yên Nhị Châu”
(vùng đất thuộc tổng Yên Thành xưa) thì có 6 cảnh đẹp thuộc về Diễn Châu, một
trong số các cảnh đẹp đó là Dạ Sơn Linh Tích (Dấu thiêng núi Mộ Dạ).
Hằng năm, vào các ngày 14, 15,16 tháng Hai âm lịch diễn ra lễ
hội Đền Cuông. Đây là lễ hội lớn không chỉ của cộng đồng cư dân vùng Diễn Châu
mà còn cả đối với cộng đồng cư dân cả nước để nhớ tới ân đức của Thục An Dương
Vương. Vào dịp lễ hội, khách thập phương ở mọi miền đất nước tụ hội về đây.
Những người con Diễn Châu xa quê cũng cố gắng thu xếp để về
thăm quê vào đúng dịp này. Theo lễ tục, chiều ngày 14 tháng Hai là Lễ yết cáo để
tạ ơn Thục An Dương Vương và trời đất; đêm ngày 14 là Lễ yến vị diễn ra mang đậm
màu sắc tâm linh đồng thời phản ánh rõ nét văn hóa ẩm thực của cả vùng; sáng
ngày 15 diễn ra hoạt động khá quan trọng của lễ hội Đền Cuông, đó là phần rước
kiệu từ đình Xuân Ái (Diễn An), nhà thờ họ Cao (Diễn Thọ) ra Đền Cuông, lễ rước
thường diễn ra rất sôi động, thu hút sự chú ý của mọi người; chiều 15 tháng Hai
là phần Lễ tạ…
Sau phần lễ tục là phần hội, phần này diễn ra từ ngày 15 đến
hết ngày 16 tháng Hai âm lịch. Ở lễ hội Đền Cuông, có nhiều hoạt động văn hóa
dân gian như: chọi gà, cờ người, vật, đánh đu... cùng các hoạt động văn hóa,
văn nghệ, thể thao như hát chầu văn, thi nét đẹp Đền Cuông, bóng bàn, kéo co,
chọi gà, leo núi...
Người dân Diễn Châu cũng như người dân khác trong tỉnh và cả
nước đến với lễ hội Đền Cuông không chỉ là dịp cầu phúc cầu tài mà còn là dịp để
lòng người ghi nhớ đoạn kết của câu chuyện Loa Thành: An Dương Vương đem công
chúa Mỵ Châu trốn kẻ thù, tới Diễn Châu thì dừng lại.
Nhận ra sự thật, vua chém con gái yêu rồi theo thần Kim Quy
đi về phía biển… Truyền thuyết và lịch sử, thực và hư, những dấu tích đã rêu
phong, đã hoen mờ cùng thời gian, chỉ còn lại đó là một Đền Cuông linh thiêng
và lòng ngưỡng vọng của nhân dân cũng đủ để rút ra bao điều đáng chiêm nghiệm…
Đến với lễ hội Đền Cuông du khách còn có thể đi thăm các chứng
tích, nhất là các địa danh như núi Kiếm, núi Đầu Cân ở xã Nghi Thiết (Nghi Lộc),
núi Mụa (núi Mũ) ở xã Diễn Phú, núi Mã Yên (Yên Ngựa) ở xã Diễn Thọ (Diễn
Châu)... Đến với Đền Cuông là đến với một danh thắng có nhiều phong cảnh đẹp, đắm
trong huyền thoại thiêng liêng đậm chất bi hùng lịch sử. Đó cũng là cách trở về
cội nguồn, được hòa mình vào hồn thiêng sông núi của nước non Âu Lạc.
Đền Cuông là ngôi đền cổ có lịch sử hình thành gắn với
một giai thoại lạ về Thục Phán – An Dương Vương, người sáng lập nhà nước
Âu Lạc trong lịch sử Việt Nam.
Năm 208 TCN, do mất cảnh giác, Thục An Dương Vương bị Triệu Đà đem quân
bất ngờ tấn công, phải rút lui về phương Nam và tuẫn tiết tại Cửa Hiền,
phía Bắc chân núi Mộ Dạ. Để tưởng nhớ Ngài, nhân dân vùng Diễn Châu đã
lập miếu thờ ở Cửa Hiền.
Theo truyền thuyết, sau ngày lập miếu thờ, mỗi khi màn đêm buông xuống
lại có những đốm lửa lập lòe trên sườn núi Mộ Dạ. Các bậc cao niên trong
vùng luận rằng, đó chính là linh hồn của vua Thục muốn yên ngự trên
sườn núi.
Từ niềm tin đó, nhân dân trong vùng đã lập đền thờ và rước linh hồn Ngài
về để thờ phụng. Đó chính là câu chuyện lịch sử về đền Cuông – ngôi đền thờ An Dương Vương trên núi Mộ Dạ.
Trải qua thăng trầm lịch sử, đền Cuông đã có một thời gian dài bị rơi
vào quên lãng. Đến năm 1990 đền được trùng tu một cách quy mô và năm
1995 lễ hội đền Cuông được tổ chức trở lại. Từ đây, lại xuất hiện nhiều lời đồn về sự linh thiêng của ngôi đền.
Đúng ngày khai mạc Lễ hội đền Cuông 1995, trong khi mọi người đang ngắm
nhìn màn cưỡi ngựa diễu hành của một nông dân, thì bất ngờ một con hạc
trắng hạ cánh trên tay người cưỡi ngựa. Giữa sự chứng kiến của hàng ngàn
người, con hạc khoe dáng mà không hề tỏ ra sợ hãi.
Người dân tin rằng, con hạc trắng chính là hóa thân của Mỵ Châu - con gái
An Dương Vương Thục Phán - về tham gia lễ hội cùng mọi người. Sau đó,
hạc được rước vào đền, cho đậu ở một nơi trang trọng, có không gian
thoáng để người người chiêm ngưỡng.
Đúng một ngày sau khi lễ hội kết thúc, hạc cũng chết. Điều này càng
khiến dân chúng tin rằng con hạc có mối liên hệ với câu chuyện cổ xưa về
tấm lòng trong sạch và cái chết oan khốc của nàng Mỵ Châu.
Sau khi tham khảo ý kiến của nhiều chuyên gia, hạc đã được mang ra Hà
Nội để nhồi xác và sau đó được đưa vào lồng kính chuyển về trưng bày ở
đền Cuông. Ngày nay, con hạc đã trở thành một linh vật, được nhiều người
chiêm bái khi ghé thăm ngôi đền.
Tại lễ hội đền Cuông 1996, ở bờ biển Cửa Hiền phía sau đền, một con cá
voi chết dạt vào bờ, ở nơi được cho là có miếu thờ An Dương Vương khi
xưa. Dân chúng lại tin rằng chuyện này ứng nghiệm với truyền thuyết sau
khi giết Mỵ Châu, An Dương Vương gieo mình xuống biển Cửa Hiền.
Lễ an táng xác cá voi năm ấy có sự tham gia của hàng vạn người với những
nghi thức trang trọng nhất. Ngày nay, nhiều du khách về tham quan đền
Cuông cũng không quên ghé qua mộ cá voi thắp nén nhang, như để tưởng nhớ
đến công ơn của vị vua năm xưa...