Đền Đá, là nơi thờ tự và tri ân công đức của nhân dân địa phương đối với ba anh em nhà họ Vũ, những vị tướng thời Hùng Vương đó là Vũ Uy, Chính Ngọ và Gia Sửu và 12 vị tổ “Thập nhị gia tiên tổ” của 12 dòng họ sớm về đây lập làng.
Đền Đá còn gọi là Đình Đá nằm trên địa bàn xóm 6 thôn Nam
Hà, xã Tân Thịnh, cách thành phố Nam Định 12km về phía Đông Nam. Đền Đá là công
trình kiến trúc có quy mô lớn, và bảo lưu gần như trọn vẹn kiến trúc nghệ thuật
thời Lê – Nguyễn. Đền được Bộ Văn hóa xếp hạng di tích lịch sử cấp Quốc gia năm
1992.
Đền Đá, là nơi thờ tự và tri ân công đức của nhân dân địa
phương đối với ba anh em nhà họ Vũ, những vị tướng thời Hùng Vương đó là Vũ Uy,
Chính Ngọ và Gia Sửu và 12 vị tổ “Thập nhị gia tiên tổ” của 12 dòng họ sớm về
đây lập làng.
Căn cứ vào các tư liệu Hán Nôm tại di tích như sắc phong,
bài vị, câu đối… Đặc biệt là cuốn “ Kim Âu Ngọc phả” ghi lịch sử Vũ Uy,
Chàng Ngọ đại vương và Gia Sửu đại vương với vùng đất Kim Âu xưa, nay là
các thôn Nam Hà, Vũ Lao Thượng ( thôn Tân Thành), Vũ Lao Hạ (thôn Vũ Lao)
thuộc xã Tân Thịnh, huyện Nam Trực. Ngọc phả do Quốc triều lễ bộ Hàn
lâm viện Đông các đại học sĩ Nguyễn Bính viết và Quán giám bách
thần chi điện, hùng lĩnh thiếu khanh Nguyễn Hiền phụng sao, đã nói
rõ lai lịch ba anh em nhà họ Vũ như sau:
Vào thời vua Hùng Duệ Vương thứ 18, ở vùng Ái Châu (
Hoàng Hóa, Thanh Hóa), có ông Vũ Công tiếp nối nghề làm thuốc và dạy học của
tổ tiên, nhưng gia cảnh vẫn túng thiếu nên ông đã quyết định ra đi tìm vùng đất
mới để sinh cơ lập nghiệp. Từ vùng đất Hoàng Hóa ra đi, mấy ngày đường người đã
thấm mệt ông đành vào nghỉ tại ngôi chùa cổ bên đường.
Đêm ấy, ông mơ thấy có người mách bảo nên ở tại đất
Kim Âu sẽ gặp mọi sự tốt lành. Sáng dậy, ông lại tiếp tục lên
đường. Khi đến một vùng phong cảnh hữu tình, thế đất đẹp đẽ như lời
thơ thần nhân mách bảo, ông bèn hỏi người làng về địa danh này, thì
hay đây chính là đất Kim Âu. Do đó ông quyết định ở lại làm ăn. Dân
thôn tỏ rõ thiện chí, nên ông đã dựng nhà và mở trường dạy học ở
địa phương.
Ở Kim Âu một thời gian, Vũ Công được dân làng yêu
quý, vun đắp cho ông lấy người con gái họ Hoàng tên Loan. Vài năm sau
vào ngày mồng ba tháng tám bà Loan sinh được một bọc hai con trai. Người
anh đặt tên là Gia Sửu vì khi bà có mang nằm mơ thấy trâu xanh, còn
người em đặt tên là Chính Ngọ bởi bà Loan mơ thấy bắt được ngựa nhảy
vào trong sân.
Một năm sau, khi Gia Sửu, Chính Ngọ còn nhỏ dại thì
bà Hoàng Thị Loan qua đời. Trong tình thế khó khăn, Vũ Công kết hôn
với bà Trần Thị Thịnh, để lấy người nuôi dạy hai con.
Một hôm, bà Thịnh ra tắm ở bến sông gần đó, thấy
một quả trứng to trôi tới, bà có ý không vớt, liền đẩy trứng ra xa,
nhưng nó lại trôi vào. Bà cho đây là điềm lành, liền vớt về luộc ăn,
từ đó mà có thai. Tới ngày mồng một tháng bảy năm Bính Dần bà
Thịnh sinh được một con trai, trên trán có chữ “Vũ Uy”, sau lưng có
hàng vây cá. Thấy thế Vũ Công liền đặt tên là Vũ Uy.
Lớn lên Vũ Uy cùng hai anh là Sửu lang và Ngọ lang
theo thầy học đạo, ba ông đều thông minh, am hiểu thiên văn địa lý,
giỏi võ nghệ.
Khi cha mẹ mất, ba ông làm tròn chữ hiếu, sau đó vào
kinh ứng mộ được Hùng Duệ Vương yêu quý mến, phong Sửu Công là Đô
hộ trấn Sơn Nam, Ngọ Công là Đương
đô đại tướng quân, cai quản Tả vệ quân, Uy Công là Vũ Uy đại tướng
quân, cai quản Hữu vệ quân, đốc lĩnh thủy tào chư sự. Ba anh em Uy Công
ở triều đình phò vua giúp nước tới 20 năm.
Khi Thục Chúa tiến đánh Duệ Vương, triều đình đã
giao cho Sửu Công dẫn 3 vạn quân, Chính Ngọ dẫn 3 vạn quân, Vũ Uy dẫn
2 vạn quân thủy cùng ba trăm thuyền chiến tiến đánh quân Thục. Khi ba
ông, tiến quân về qua quê hương Kim Âu dân làng đến chúc mừng và tình
nguyện đi theo rất đông. Ba ông đã chọn đinh tráng trong ba họ Hoàng,
Trần, Lưu cả thảy 66 người, cùng lên đường đánh quân Thục.
Chiến thắng trở về, ông Sửu được cử làm chỉ huy sứ
Châu Hoan, ông Ngọ được phong Tả đô đài đại phu, ông Vũ Uy làm Thủy
tào phán sự.
Về sau, Hùng Duệ Vương nhường ngôi cho Thục Chúa.
Thấy vậy, ba anh em Sửu Công, Ngọ Công, Uy Công buồn phiền, không thuần
phục chủ mới, quay về làng cũ Kim Âu. Ba ông đã phân vùng đất Kim Âu
làm ba thôn: Vũ Lao hạ do Sửu Công ở; Đoài Thôn, tức Vũ Lao Thượng
Ngọ Công ở; còn thôn Nam tức thôn Nam Hà thì Vũ Uy ở.
Sống ở Kim Âu, ba ông đã khuyên dân làng chăm lo việc
nông tang, lấy việc cấy lúa làm cơ bản, lại còn dựng nhà dạy học
cho con em nhân dân trong vùng, nên được mọi người kính trọng.
Một lần ba ông về quê cũ Ái Châu, làm lễ cáo yết
gia tiên, xong việc lại tới Châu Hoan thăm phong cảnh. Khi tới núi Kim
Nhan, Sửu Công, Ngọ Công đều hóa, lúc ấy là ngày rằm tháng chạp.
Thấy vậy Uy Công sợ hãi cùng mọi người thu thập mũ
áo của Sửu Công, Ngọ Công đem về đất Kim Âu chôn cất. Hiện nay, ở gần
đền Đá Nam Hà còn khu đất gọi là “ Khả Lạc lăng” với truyền thuyết
nơi chôn mũ áo của Sửu Công, Ngọ Công.
Một thời gian sau, vào ngày ba tháng ba, ông Vũ Uy qua
đời để lại bao sự luyến tiếc trong nhân dân. Nhân dân Kim Âu đã thiết
lập đền thờ Vũ Uy Công ở thôn Nam Hà, còn ở Đông thôn, Đoài thôn, tức
Vũ Lao hạ, Vũ Lao thượng thiết lập đền thờ Sửu Công, Ngọ Công vì đó
là mảnh đất có liên quan đến lúc sinh thời của các ông.
Nhưng do quan hệ gia đình nên ngoài việc thờ thần có
liên quan đến địa phương, còn có sự phối thờ anh em của thần cho vẹn
toàn tình nghĩa. Cụ thể, việc sắp xếp thờ tự ở các làng Nam Hà,
Vũ Lao hạ, Vũ Lao thượng như sau:
Làng Nam Hà là nơi ở của Vũ Uy Công, nên thờ ông là
chính, còn Sửu Công, Ngọ Công tuy là anh cũng chỉ phối thờ hai bên.
Làng Vũ Lao thượng thờ Ngọ Công, làng Vũ Lao hạ thờ Sửu Công là
những nhân vật có liên quan đến địa phương, đồng thời cũng có sự
phối hợp thờ anh em như thôn Nam Hà.
Khám và Ngai thờ các ngài Uy Công, Ngọ Công và Sửu Công
Ngoài Ngọc phả,
sắc phong, đình Đá thôn Nam Hà còn giữ gìn được nhiều câu đối, đại
tự ca ngợi công lao giúp nước, giúp dân của cả ba ông.
Cử nhân triều Lê là Nguyễn Cung có bài thơ “ Cảm hoài”
nói về mảnh đất Kim Âu và công lao to lớn của ba anh em Vũ Uy công.
Tạm dịch như sau:
Nhớ đất Kim Âu xưa bãi biển,
Vốn nhà ông Vũ ở nơi đây
Quyết trừ giặc Thục công danh vẹn
Thề giúp vua Hùng kế sách hay
Ba vị anh em tài giỏi cả,
Ngàn năm thôn xóm ngóng trông mây
Gặp đời vua, thánh dân
yên ổn,
Gọi mấy vần thơ nói dạ này.
Ngoài việc thờ các tướng thời kỳ Hùng Vương, đền
Đá Nam Hà còn thờ các tổ khai sáng và các đại khoa là những người con quê hương.
Tại tòa trung đường có hai ban thờ hai
bên thờ 12 vị tổ, mà nhân dân địa phương gọi là “Thập nhị gia tiên
tổ”. Đó là các tổ của 12 dòng họ Tống, Nguyễn, Đỗ, Đoàn, Hoàng,
Trần, Lưu, Lê, Vũ, Phạm, Bùi, Đặng sớm về đất Kim Âu lập nghiệp và hai ban
thờ hai vị đại khoa là Hoàng Thiện Quy và Lưu Đại Lý.
Xưa kia, mảnh đất bãi bồi này các tổ về đây phải
tốn nhiều công lao khai phá, từ vượt thổ làm nhà đến cải tạo ruộng
đất, dẫn thủy nhập điền. Các vị tổ đã không ngừng làm cho vùng quê
này ngày thêm trù mật.
Ban thờ “Thập nhị gia tiên tổ”, những vị tổ đầu tiên về khai
hoang lập ấp Kim Âu xưa – Nam Hà ngày nay
Trong số 12 dòng
họ đến đây khai hoang lập ấp, hiện có một số dòng họ còn lưu giữ được
nhiều tư liệu quí như : gia phả, thư tịch... nói lên sự nghiệp, truyền
thống dựng quê hương. Câu đối ở từ đường họ Tống có ghi :
“ Nom giảm hương nồng, tư duy cơ thủy kế thừa bản chi
bách thế
Hà Nguyên phái dẫn, hợp thử khoa danh hào hữu phiệt
duyệt nhất môn”
Nghĩa là:
Dòng nước phương Nam hương thơm nồng đượm, nghĩ đến
nguồn gốc và nối tiếp của chi phái hàng muôn đời
Dòng họ có chi phái đạt khoa danh, tỏ rõ anh hào mở
đường cử lớn lao.
Câu đối ở từ đường họ Nguyễn cũng đề cập đến truyền
thống của dòng họ:
“ Nam quận phương danh suy Nguyễn tính
Tôn diệu khoa phả tố Lê Triều”
Nghĩa là:
Nổi tiếng phương Nam có họ Nguyễn
Việc tôn thờ theo khoa phả có từ triều Lê.
Ban thờ 2 vị Đại khoa Hoàng Thiện Quy và Lưu Đại Lý
Việc thờ hai vị
đại khoa họ Hoàng, Họ Lưu tại đền Đá thôn Nam Hà ở một vùng quê có
truyền thống hiếu học và khoa bảng
có ý nghĩa sâu sắc, không chỉ làm rõ thêm truyền thống của thôn
Nam Hà, mà đã bổ sung tô đậm thêm truyền thống văn hiến của xã Tân
Thịnh nói riêng, huyện Nam Trực nói chung.
Đền Đá thôn Nam Hà xã Tân Thịnh là một công trình kiến trúc
khá lớn, nằm trên khu đất cao ráo, rộng gần hai mẫu. Di tích đứng biệt lập, xa
làng xóm, xung quanh có nhiều cây lưu niên, nhiều cây cổ thụ, đã hòa nhập với cấu
trúc của công trình thành một tổng thể hài hòa, hoàn chỉnh.
Đền Đá thôn Nam Hà đã qua nhiều lần tu sửa và tôn tạo. Tổng
thể công trình hiện nay có 4 tòa nhà chính và một dãy giải vũ ở về phía Bắc.
Tòa bái đường có 5 gian, xây dựng từ đầu thế kỷ 19, toàn bộ
được làm bằng đá. Tuy vậy, các cấu kiện như cột, xà, hệ thống cửa võng đến các
thanh đấu, trụ to... vẫn giữ được phong cách kiến trúc cổ truyền của dân tộc.
Mặt tiền tòa bái đường, ở ngay vị trí trung tâm là hình ảnh
ba con rồng rất to, khỏe, râu tóc uy nghi, thân, vây uyển chuyển, bố cục theo
tư thế chầu cân đối, như đang ôm, giữ ba chữ “Tam long giáng”, nổi bật trong ba
vòng tròn hài hòa, nghệ thuật tạo hình này là một dạng đại tự đặc biệt, làm
tăng sự tôn nghiêm, sự hiển vinh của ba vị tướng thời Hùng Vương, ba người con
của quê hương.
Chạm khắc đá hình tượng Rồng tại tòa Tiền Đường
Cũng ở mặt tiền tòa bái đường, các cột trụ đầu hồi bằng đá,
đứng trên chân cổ bồng có trang trí lá sòi, cánh sen đẹp mắt. Chân trụ có nẹp nổi,
đai nổi, phía trên có đấu, có lồng đèn làm công phu, tỷ lệ cân xứng, trên cùng
là nghê chầu cũng bằng đá làm theo phong cách cổ truyền.
Hai hàng cột đá ở bái đường có đường kính 40 cm, chân cột đặt
trên trụ tảng quả bồng, cũng có họa tiết chỉ nổi, lá sòi chạy quanh được làm
công phu, có giá trị thẩm mĩ. Đặc biệt, 8 cột đá là 8 bức phù điêu, nổi bật là
hình ảnh những con rồng trong tư thế bay lên, ẩn hiện trong các đám mây mềm mại.
Lại có những con rồng đang bay xuống hút nước dưới hồ sen, cuốn theo cả những
con cá chép có thân hình mập mạp, sinh động.
Mỗi gian của bái đường, đều có một bộ cửa võng bằng đá. Đây
là một mảng đá liền khối, ngoài nhiệm vụ
là hàng xà, nó giữ và tạo sự liên kết giữa các hàng cột, cửa võng còn là những
bức phù điêu chạm khắc công phu. Những họa tiết “Hổ phù” chạm nổi oai nghiêm,
những băng triện tàu, lá dắt làm rất hài hòa và cách tạo dáng của cửa võng rất
hợp cảnh với các phù điêu long thăng, long cuốn thủy ở cột. Ở thân cột trụ
vuông đầu hồi là các đề tài chạm khắc cành mai con chim (mai điểu), cây tùng
con hạc, hoa cúc con bướm (cúc điệp), cành trúc con chim ...
Phía trên hệ thống cửa võng và hàng cột ngoài của tòa bái đường,
còn có hàng dậu mặt tiền, cũng hoàn toàn bằng đá. Ngoài mô típ song tiện hình lộc
bình, các băng trang trí những cánh sen uyển chuyển, ở thân xà của hàng dậu,
còn đục chạm rất tài nghệ các đề tài bầu rượu túi thơ, những con Phượng hàm
thư, những phong thư cài lá trông quyến rũ, nghệ thuật....
Phía ngoài tòa bái đường được gia công nghệ thuật công phu,
điêu luyện bao nhiêu, thì bên trong cũng được đầu tư trí tuệ vào nghệ thuật
điêu khắc kỳ công bấy nhiêu. Trên thân các xà, trên các tòa cửa võng.... nghệ
nhân đã đua tài, thể hiện các cây trúc hóa long thật tài nghệ, mô tả cảnh sư tử
vờn cầu thật sinh động cùng các cảnh rùa bơi lội trong ao sen, hoặc đề tài quen
thuộc “tùng lộc”....
Phía trong tòa Bái đường là tòa Tiền đường 5 gian. Công
trình này nguyên xưa làm kiểu bốn mái cong (địa phương thường gọi là mái sấn),
theo lối thượng bò, hạ kẻ. Hệ thống cột ở đây tuy đường kính cột 30cm, không lớn
lắm nhưng đều đặt trên hàng chân tảng cổ bồng, có chạm khắc đường sòi, chỉ nổi
rất công phu.
Điều đáng chú ý là mặt trước tòa Tiền đường này, ở ba gian
giữa cũng được thiết kế bằng đá. Từ cột đỏ chạm nổi câu đối, có chỉ nổi, nẹp nổi
đến hệ thống ngạch ngưỡng cửa, đục chạm triện tàu, lá giắt.... cũng thật công
phu, nghệ thuật.
Tòa tiền đường tuy tu sửa vào năm 1877 dưới triều Tự Đức,
nhưng nhìn chung đường nét dáng dấp kiến trúc cổ truyền còn được bảo lưu khá
nhiều.
Bên trong tòa Tiền đường là tòa Trung đường, cũng có 5 gian,
hai bên còn có lâu các với đao, guột mềm mại, đường nét cổ kính.
Trung đường được trùng tu dưới thời Thành Thái thứ tư (1892),
tuy không còn nguyên vẹn kiểu dáng xa xưa, nhưng qua hoạ tiết để lại trên các
con giường, trên các hàng trụ,… cũng thấy rõ tài năng của những người thợ cổ
truyền quê hương.
Các nghệ nhân đã chạm rất thành công hình ảnh “Hổ phù”, hai
bên có nghê chầu sinh động. Ở thành câu đầu, hoạ tiết những con dơi ngậm tiền
(phúc hàm tiền) dưới đó là ba chữ “Nam chi thọ” trong vòng trang trí tinh tế,
nghệ thuật. Đây là ước vọng về phúc, về lộc, và mong muốn cho dân làng Nam Hà
được sống lâu, tồn tại mãi mãi.
Dưới đại tự “Nam chi thọ” là những mảng chạm nhỏ với đề tài
hổ phù, mặt nguyệt, chim vờn hoa cúc, long chầu, phượng múa, mây tản,… rất công
phu.
Tiêu biểu hơn cả, có niên đại lâu hơn cả là bộ cửa gồm bốn
cánh: hai cánh ở giữa, và hai cánh ở bên được chạm nổi hoạ tiết lưỡng long chầu
(ở bộ cửa giữa), long chầu (cửa nách).
Con rồng ở đây thân hình mập khỏe râu tóc uy nghi, đuôi thì
mềm mại hoà nhập với hoa lá trang trí với các đám mây đan xen hoà nhập với các
đao mác cứng rắn, đanh thép…mang phong cách thời Hậu Lê (thế kỷ 17 - 18) là di
vật quý giá ở di tích. Liền với chính tẩm còn có gác lâu 3 tầng, làm kiểu “Chồng
diêm - cổ đẳng” khá công phu, nghệ thuật. Gác lâu có bộ mái cong, có đao, guột
với đường vân rỗng. Ngói ống, riềm ngói, riềm mái rất hài hoà.
Bộ cánh cửa Hậu cung Thế kỷ 17 - 18
Tại cổ lâu còn được
trang trí câu đối nhấn thân trụ, cùng các khuông tạo cửa thông thoáng, các hình
chữ thọ, các đường triện, hoa lá cách điệu cũng thật là công phu, đẹp mắt. Tầng
dưới của gác lâu cũng được trang trí không kém tầng trên.
Bốn mái với đao guột, thân gác lâu với 8 cột tròn nhấn câu đối
trong khuôn, các hoạ tiết đắp nổi theo đề tài “Ngũ phúc hàm thọ” (5 con dơi ngậm
chữ thọ), các đường triện tàu lá dắt. Vành bao loan với hình ảnh lưỡng long hí
cầu, cửa võng… đã chứng minh bản lĩnh nghề nghiệp của hội thợ nề, thợ chạm người
địa phương.
Ngoài những giá trị về lịch sử kiến trúc nghệ thuật Đền Đá
Nam Hà còn là nơi diễn ra lễ hội truyền thống và sinh hoạt tín ngưỡng của nhân
dân địa phương trong đó ngày mùng 6 tháng giêng có tục tế hạ điền, sân làng chuẩn
bị một cây nêu bằng tre, cao 1m50, một cây khoai nước thật to.
Ban tổ chức chọn một đám ruộng đã được cày bừa chu đáo. Khi
tế thần nông ở đền xong, chủ tế được rước ra ruộng, khi rước có lọng, trống, phách, có cả người gánh hai đóm mạ tượng
trưng như đi cấy. Đến ruộng, chủ tế xuống ruộng cấy, nhân dân xúm lại xung
quanh ruộng, hò reo té nước làm cho chủ tế bị ướt, bị lấm để cầu may mong cho
mưa thuận gió hoà.
Lễ hội đền Đá được tổ
chức với qui mô lớn, 3 năm một lần vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu. Lễ hội diễn
ra từ ngày 02/3 đến ngày 05/3 âm lịch với nhiều nghi thức tế, lễ, rước và nhiều
trò chơi dân gian mang đậm bản sắc của vùng văn minh lúa nước.
Trong lễ hội, có tục lễ hội giao hiếu giữa ba làng Nam Hà,
Võ Lao Hạ, Võ Lao Thượng. Việc lễ hội này có quy định để 3 làng không bị trùng
lặp. Cụ thể như sau: Thôn Nam Hà mở hội vào các năm Tý, Ngọ, Mão, Dậu, hai làng
Võ Lao có rước sang phối hợp tế lễ, sáng hôm sau lại rước về đình làng yên vị.
Còn các năm khác để cho làng Võ Lao chủ trì, thôn Nam Hà chỉ
tham gia phối hợp tế lễ như đã quy định. Lệ này vừa thể hiện quan hệ anh em của
ba vị thần, vừa tăng tình đoàn kết giữa ba thôn.
Lễ rước Kiệu Giao hiếu 3 thôn
Đền Đá, di tích thờ Vũ Uy Công và hai người anh của ông những
người con ưu tú của quê hương Nam Trực, có công giúp vua Hùng đánh giặc giữ nước,
lập nhiều công lớn. Tại đây còn thờ “ Thập nhị gia tiên tổ” của các dòng họ đến
đây khai hoang, lập ấp, cải tạo đồng ruộng, tạo lập kỷ cương, khuyến khích việc
học hành, thi cử và thờ hai vị Đại khoa
là Hoàng Thiện Quy và Lưu Đại Lý là hai vị Tiến sĩ triều Lê, là minh chứng
làm sáng tỏ và rạng rỡ cho truyền thống hiếu học của quê hương.
Trong thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược. Đền Đá là địa điểm ghi dấu nhiều sự kiện lịch sử quan trọng, góp phần
vào thắng lợi chung của dân tộc.
Đền Đá là một công trình kiến trúc có quy mô lớn, mang đậm bản
sắc dân tộc. Tòa Bái đường hoàn toàn bằng đá, với nghệ thuật thiết kế và trạm
khắc vô cùng tinh xảo và độc đáo. Cùng với một số tác phẩm điêu khắc nghệ thuật
như: kiệu, ngai, khám, bát bửu…và hệ thống sắc phong, câu đối, đại tự...Đặc biệt
là bộ cánh cửa chạm khắc rồng chầu, có từ thế kỷ 17-18 còn lại ở đền, là một
minh chứng về quá trình xây dựng đền rất sớm và làm tăng thêm giá trị độc đáo của
di tích. Thể hiện bàn tay lao động tài hoa và khối óc sáng tạo của người dân
Nam Trực.
Những giá trị Lịch sử - Kiến trúc nghệ thuật đền Đá Nam Hà
khẳng định quá trình hình thành và phát triển từ hàng nghìn năm trước của vùng
đất Nam Hà nói riêng, Nam Trực nói chung. Truyền thống đấu tranh chống giặc ngoại
xâm, những đóng góp của nhân dân Nam Trực trong quá trình lịch sử nghìn năm dựng
nước và giữ nước. Truyền thống hiếu học và khoa bảng, những tài năng sáng tạo,
bàn tay khéo léo của nhân dân Nam Trực đã tạo ra những công trình mang giá trị
nghệ thuật cao.
Đền Đá nằm trên địa bàn có cảnh quan hấp dẫn, cách khu du lịch
sinh thái làng hoa cây cảnh Vị Khê, xã Điền Xá và đền thờ Trạng Nguyên Nguyễn
Hiền, xã Nam Thắng không xa và nằm sát với đê hữu sông Hồng nối Quốc lộ 10 với
Quốc lộ 21. Vì vậy, đây là một điểm tham quan trong tua du lịch sinh thái và
tâm linh của mỗi du khách khi về với Nam Định nói chung và Nam Trực nói
riêng./.
Sưu tầm và biên soạn: Trần Duy Huyền
Ảnh: Phạm Ngọc Thịnh