Đền Dạ Trạch (đền Hóa) thờ phụng đức thánh Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung, công chúa Hồng Vân Đền Dạ Trạch (đền Hóa) thờ phụng đức thánh Chử Đồng Tử và Công chúa Tiên Dung, công chúa Hồng Vân Đền Hóa Dạ Trạch còn có tên gọi là đền Dạ Trạch, thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Hồng Vân Công chúa. Đền Hóa Dạ Trạch được xây dựng trên nền của lâu đài thành quách xưa, sau khi vợ chồng thánh Chử hóa về trời. Vào cuối thế kỷ 19, đền được trùng tu tôn tạo, do công sức đóng góp của nhân dân tổng Vĩnh và người chỉ huy xây dựng là tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Đền Hóa Dạ Trạch lưu giữ nhiều cổ vật như sắc phong, hoành phi câu đối, đại tự. Đặc biệt là chiếc nón và cây gậy - phép biến hóa của Chử Đồng Tử dùng để cứu nhân độ thế. Tượng cá chép, gọi là ông “Bế”, “Bế ngư thần quan”, tạo hình cá chép đang hóa rồng. Chuông “Dạ Trạch Từ chung” (Chuông đền Dạ Trạch), đúc năm Thành Thái thứ 14 (1902) ghi lại quá trình trùng tu di tích. Đền Hóa, đền Dạ Trạch, Dạ Trạch Hóa từ. Sở dĩ có tên gọi "Dạ Trạch " vì dền nằm ngay trong vùng đầm Nhất Dạ Trạch, thuộc địa phận xã Dạ Trạch ngày nay. Và gọi là đền Hóa vì tương truyền đây chính là nền lâu đài cũa của Chử Đồng Tử - Tiên Dung để lại sau khi tất cả đã bay về trời. Nếu đúng như trong sách Lĩnh Nam Trích Quái viết (Nửa đêm trời bỗng nhiên sáng rực, lâu đài thành quách của Chử Đồng Tử - Tiên Dung bay cả lên trời, để lại đầm nước mênh mông. Quan quân sợ quá về tâu, Vua Hùng Duệ Vương đến tận nơi xem và truyền lập đền thờ, nhân dân bốn mùa cúng tế... ) thì đền Hóa có từ rất lâu rồi. Những truyện thế kỷ thứ V Triệu Quang Phục cầu đảo ở đây, thế kỷ XV Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến đây cầu mộng, thế kỷ XVI các nhà thơ hội Tao Đàn đã làm thơ vịnh Chử Đồng Tử, có câu "Anh linh miếu dõi từng hương khói " vậy từ khi ấy đã có miếu thờ, đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung tại nơi này. Nhưng quy mô nhỏ, vật liệu xây cất thế nào và có đúng nơi đây là nền miếu cũ thì rất khó xác định. Đền Dạ Trạch khi ấy nằm trên gò đất cao, người dân muốn vào đền phải đi thuyền. Những năm đền mở hội, phải bắc một cầu tre cho người qua lại. Bước lên gò, các cụ phụ lão còn phải leo 19 bậc mới tới sân đền. Đền Hóa Dạ Trạch hiện nay mới được trùng tu cách đây khoảng 100 năm. Ao, đầm chung quanh đã lấp hết, trước đền chỉ còn lại hồ bán nguyệt nhỏ. Bước lên đền hôm nay chỉ leo 4 bậc. Đền Hóa Dạ Trạch nhìn thẳng hướng chính Đông, xây theo kiểu chữ I (công) có ba tòa lộng lẫy. Đẹp nhất tòa thứ ba, tức hậu cung, mái vòm cuốn tam cấp, gợi cảm giác như đứng trong khoang thuyền. Gian chính diện, ở giữa là ba pho tượng lớn, tượng Chử Đồng Tử ngồi giữa, mặc hoàng bào. Bên trái là Tiên Dung, bên phải là Nội Trạch Tây Cung. Cũng ở gian chính diện, bên phải là bàn thờ thân phụ và thân mẫu thánh Chử Đồng Tử. Bên trái là bàn thờ Long Ngai, long vị Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục trước đây được thờ ở một đền riêng. Do đền này đổ nát, dân làng phối tự về đây. Đền Dạ Trạch là một đền lớn và đẹp, nhiều cột lim to, nhiều hoành phi, câu đối ca ngợi sự tích, tôn vinh thánh Chử và Đạo của Ngài: - Uất thông giai khí (khí tụ lại, phát dần lên). - Âm dương hợp củng (Âm dương cùng hòa hợp) - Sở quá giả hóa (Tự làm quá đi, vậy hóa thành cái khác) - Nam thiên tứ vị (bốn vị thần trời Nam, ý câu này nhắc tới Chử Đồng Tử là một trong 4 vị "Tứ bất tử"). - Hải thượng tam thần (Ban vị thần ở trên biển. Câu này ca ngợi Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân hiển thánh bay về trời tại biển này ) Cũng ở đền Hóa Dạ Trạch, gian giữa bên trái có tượng thần cá. Đó là "Bế Ngư thần quan". Tượng bằng gỗ, sơn son thiếp vàng, đầu rồng, thân và đuôi hình cá chép, nhân dân quen gọi là "ông Bế". Cùng bàn thờ và tượng ông Bế là hai con ngựa một đỏ, một trắng. Tương truyền Chử Đồng Tử - Tiên Dung thường cưỡi ngựa đi các nơi chữa bệnh cho nhân dân. Cả tượng cá, tượng ngựa đều có bánh xe, ngày hội dân làng đưa ra rước, người đi hai bên cầm lọng che. Đối diện với ngai thờ ông Bế, là một ngai thờ, bên bát hương có chiếc gậy, đầu gậy úp cái nón. Nón và gậy thần là biểu hiện phép tiên Chử Đồng Tử chữa bệnh cải tử hoàn sinh cho nhân dân. Đền Hóa Dạ Trạch nhìn thẳng ra một cái hồ, trước hồ có lầu chuông. Chuông này được đúc năm Thành Thái thứ 14 (năm 1902) mang tên Dạ Trạch từ chung (chuông đền Dạ Trạch). Ở đây còn dựng hai bia đá, có niên đại năm Gia Long thứ 17 (năm 1819). Đền Hóa ở sâu trong vùng đầm Dạ Trạch, nổi tiếng thâm nghiêm và linh thiêng. Trên gò đất phía sau đền ngày nay vẫn còn giữ được một ít cây cổ thụ, tạo cho đền Hóa một vẻ đẹp thâm u, huyền bí, thoát tục. Không khí linh thiêng trong đền quyện mùi nhang trầm, hương hoa, giữa mùa hè mà ở đây yên tĩnh dịu mát. Sau màn che, cửa võng là ánh đèn nến lung linh đưa con người về với tổ tiên, cội nguồn dân tộc nơi xa xưa, con người yêu nhau, hòa hợp với thiên nhiên, đánh giặc và xây dựng quê hương đất nước. Cách đây trên dưới 4000 năm lịch sử như trong thần phả của đền hóa đã ghi. Sau khi đức thánh Chử Đồng Tử kết duyên cùng Tiên Dung công chúa tại bãi tự nhiên thuộc Màn Chầu (cuộc tình duyên do thiên định), không được vua cha thuận ý lên vợ chồng. Không giám hồi cung, hai vợ chồng thánh ở lại khu vực huyện Chu Diên để kiếm kế sinh nhai. Một hôm Chử Đồng Tử theo thuyền ra khơi đi buôn bán, dạt vào một hòn đảo, gặp được Tiên Ông tên là Ngưỡng Quy Tiên, ông thấy Đồng Tử diện mạo khác thường bèn giữ lại dạy cho một số bài thuốc chữa bệnh bằng lá rừng để cứu dân độ thế và dạy cho phép thuật. Sau 3 ngày ở động tiên, Đồng Tử đã biết được việc chữa bệnh, Tiên Ông cho phép Đồng Tử về, ban cho Đồng Tử chiếc gậy và nón và dặn: " Phép thần thông ở cả trong này, có việc gì nhà người cần kíp cứ cắm trượng xuống đất, úp nón trên đầu trượng, đọc câu thần chú mọi việc sẽ được như ý muốn ". Trượng, nón được thờ tại đền Hóa Dạ Trạch Một ngày kia, trong làng bỗng có bệnh dịch tả, Đồng Tử cùng Tiên Dung đi chữa bệnh cho nhiều người. Một hôm, vì mải chữa bệnh nên khi trời tối, nhớ lại câu thần chú của Tiên Ông dạy, thánh Chử Đồng Tử liền chống cây gậy và úp nón để tạm nghỉ. Nửa đêm thức giắc thì thấy mình ở trong một tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ. Vua Duệ Vương thấy vậy thì tưởng rằng con rể định cướp ngôi, vua liền đem quân ra đánh bắt về trị tội. Khi quân nhà vua đến, thì cả tòa lâu đài bỗng chốc biến đâu mất, để lại nơi đấy một cái Trầm, gọi là Trầm Nhất Dạ, đó là đêm 17/11 âm lịch. Do đó có sự tích " Đầm Dạ Trạch " mà chúng ta biết ngày nay. Tương truyền, khi quân Minh xâm lược nước ta, nhà Hồ thất thế, Nguyễn Trãi đến đền Hóa Dạ Trạch cầu đảo được thần báo mộng vào Lam Sơn, phò Lê Lợi chống giặc Minh xâm lược. Trong quần thể di tích còn có đầm Dạ Trạch. Đây là dấu tích của khu đầm Dạ Trạch rộng lớn trước đây, nơi Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục đóng quân doanh chống quân Lương xâm lược (thế kỷ 6) thắng lợi. Hàng năm, đền Hóa Dạ Trạch có bốn tiết chính: ngày 4/1 (âm lịch), ngày sinh của Tiên Dung công chúa; 10/2 ngày sinh của Hồng Vân công chúa; 12/8 ngày sinh Chử Đồng Tử; 17/11 ngày kỵ thánh. Lễ hội chính diễn ra từ ngày mùng 10 đến 12 tháng 2 (âm lịch), kỷ niệm ngày sinh Hồng Vân công chúa. Mở đầu là nghi thức rước nước từ sông Hồng về lễ thánh. Đám rước uy nghi, rồng vàng dẫn đầu, hội rước cờ, trống, phường bát âm, múa sinh tiền, bát bửu, kiệu long đình, kiệu chóe nước, kiệu đặt nón, gậy, kiệu “Bế ngư thần quan”, ba kiệu rước Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Hồng Vân công chúa. Đám rước tới sông Hồng cũng là lúc thuyền rồng bên bãi Tự Nhiên (xã Tự Nhiên - Thường Tín - Hà Tây) ra chào đón, cùng tham gia hội. Trên sông cờ xí rợp trời, rồng vàng uốn lượn, tiếng hát, tiếng đàn, tiếng trống rộn ràng thúc. Một bô lão cao tuổi trong làng thận trọng múc từng gáo nước đổ vào chóe. Theo định kỳ cứ ba năm Dạ Trạch rước giao hiếu với Từ Hồ vào ngày 11. Đoàn rước ở lại tế lễ một đêm, sau đó rước về. Nếu khóa hội này Từ Hồ rước kiệu xuống tham gia tế lễ thì khóa sau Dạ Trạch rước kiệu lên. Đám rước tế tại khu vực đền Yến (khu vực đình, chùa Từ Hồ, tương truyền là nơi ông bà ăn yến tiệc trước khi về hóa tại Dạ Trạch). Năm hội nào Từ Hồ rước giao hiếu xuống Dạ Trạch, thì Dạ Trạch tổ chức rước du vào buổi sáng ngày 11. Đám rước qua thôn Đức Nhuận, Đông Kim, qua vườn ngô, bãi mía, thăm đầm Dạ Trạch để tưởng nhớ tới làng quê trù phú, lâu đài thành quách khi xưa. Trong ngày hội tổ chức hát trống quân, quan họ, ca trù và nhiều trò chơi dân gian như đập niêu đất, đi cầu kiều, bắt vịt trong ao, bịt mắt bắt dê… --> Nguồn: Cổng thông tin điện tử Khoái Châu Đền Hóa Dạ Trạch còn có tên gọi là đền Dạ Trạch, thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, huyện Khoái Châu, thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Hồng Vân Công chúa. Đền Hóa Dạ Trạch được xây dựng trên nền của lâu đài thành quách xưa, sau khi vợ chồng thánh Chử hóa về trời. Vào cuối thế kỷ 19, đền được trùng tu tôn tạo, do công sức đóng góp của nhân dân tổng Vĩnh và người chỉ huy xây dựng là tiến sĩ Chu Mạnh Trinh. Đền Hóa Dạ Trạch lưu giữ nhiều cổ vật như sắc phong, hoành phi câu đối, đại tự. Đặc biệt là chiếc nón và cây gậy - phép biến hóa của Chử Đồng Tử dùng để cứu nhân độ thế. Tượng cá chép, gọi là ông “Bế”, “Bế ngư thần quan”, tạo hình cá chép đang hóa rồng. Chuông “Dạ Trạch Từ chung” (Chuông đền Dạ Trạch), đúc năm Thành Thái thứ 14 (1902) ghi lại quá trình trùng tu di tích. Đền Hóa, đền Dạ Trạch, Dạ Trạch Hóa từ. Sở dĩ có tên gọi "Dạ Trạch " vì dền nằm ngay trong vùng đầm Nhất Dạ Trạch, thuộc địa phận xã Dạ Trạch ngày nay. Và gọi là đền Hóa vì tương truyền đây chính là nền lâu đài cũa của Chử Đồng Tử - Tiên Dung để lại sau khi tất cả đã bay về trời. Nếu đúng như trong sách Lĩnh Nam Trích Quái viết (Nửa đêm trời bỗng nhiên sáng rực, lâu đài thành quách của Chử Đồng Tử - Tiên Dung bay cả lên trời, để lại đầm nước mênh mông. Quan quân sợ quá về tâu, Vua Hùng Duệ Vương đến tận nơi xem và truyền lập đền thờ, nhân dân bốn mùa cúng tế... ) thì đền Hóa có từ rất lâu rồi. Những truyện thế kỷ thứ V Triệu Quang Phục cầu đảo ở đây, thế kỷ XV Nguyễn Trãi và Trần Nguyên Hãn đến đây cầu mộng, thế kỷ XVI các nhà thơ hội Tao Đàn đã làm thơ vịnh Chử Đồng Tử, có câu "Anh linh miếu dõi từng hương khói " vậy từ khi ấy đã có miếu thờ, đền thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung tại nơi này. Nhưng quy mô nhỏ, vật liệu xây cất thế nào và có đúng nơi đây là nền miếu cũ thì rất khó xác định. Đền Dạ Trạch khi ấy nằm trên gò đất cao, người dân muốn vào đền phải đi thuyền. Những năm đền mở hội, phải bắc một cầu tre cho người qua lại. Bước lên gò, các cụ phụ lão còn phải leo 19 bậc mới tới sân đền. Đền Hóa Dạ Trạch hiện nay mới được trùng tu cách đây khoảng 100 năm. Ao, đầm chung quanh đã lấp hết, trước đền chỉ còn lại hồ bán nguyệt nhỏ. Bước lên đền hôm nay chỉ leo 4 bậc. Đền Hóa Dạ Trạch nhìn thẳng hướng chính Đông, xây theo kiểu chữ I (công) có ba tòa lộng lẫy. Đẹp nhất tòa thứ ba, tức hậu cung, mái vòm cuốn tam cấp, gợi cảm giác như đứng trong khoang thuyền. Gian chính diện, ở giữa là ba pho tượng lớn, tượng Chử Đồng Tử ngồi giữa, mặc hoàng bào. Bên trái là Tiên Dung, bên phải là Nội Trạch Tây Cung. Cũng ở gian chính diện, bên phải là bàn thờ thân phụ và thân mẫu thánh Chử Đồng Tử. Bên trái là bàn thờ Long Ngai, long vị Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục. Triệu Quang Phục trước đây được thờ ở một đền riêng. Do đền này đổ nát, dân làng phối tự về đây. Đền Dạ Trạch là một đền lớn và đẹp, nhiều cột lim to, nhiều hoành phi, câu đối ca ngợi sự tích, tôn vinh thánh Chử và Đạo của Ngài: - Uất thông giai khí (khí tụ lại, phát dần lên). - Âm dương hợp củng (Âm dương cùng hòa hợp) - Sở quá giả hóa (Tự làm quá đi, vậy hóa thành cái khác) - Nam thiên tứ vị (bốn vị thần trời Nam, ý câu này nhắc tới Chử Đồng Tử là một trong 4 vị "Tứ bất tử"). - Hải thượng tam thần (Ban vị thần ở trên biển. Câu này ca ngợi Chử Đồng Tử và nhị vị phu nhân hiển thánh bay về trời tại biển này ) Cũng ở đền Hóa Dạ Trạch, gian giữa bên trái có tượng thần cá. Đó là "Bế Ngư thần quan". Tượng bằng gỗ, sơn son thiếp vàng, đầu rồng, thân và đuôi hình cá chép, nhân dân quen gọi là "ông Bế". Cùng bàn thờ và tượng ông Bế là hai con ngựa một đỏ, một trắng. Tương truyền Chử Đồng Tử - Tiên Dung thường cưỡi ngựa đi các nơi chữa bệnh cho nhân dân. Cả tượng cá, tượng ngựa đều có bánh xe, ngày hội dân làng đưa ra rước, người đi hai bên cầm lọng che. Đối diện với ngai thờ ông Bế, là một ngai thờ, bên bát hương có chiếc gậy, đầu gậy úp cái nón. Nón và gậy thần là biểu hiện phép tiên Chử Đồng Tử chữa bệnh cải tử hoàn sinh cho nhân dân. Đền Hóa Dạ Trạch nhìn thẳng ra một cái hồ, trước hồ có lầu chuông. Chuông này được đúc năm Thành Thái thứ 14 (năm 1902) mang tên Dạ Trạch từ chung (chuông đền Dạ Trạch). Ở đây còn dựng hai bia đá, có niên đại năm Gia Long thứ 17 (năm 1819). Đền Hóa ở sâu trong vùng đầm Dạ Trạch, nổi tiếng thâm nghiêm và linh thiêng. Trên gò đất phía sau đền ngày nay vẫn còn giữ được một ít cây cổ thụ, tạo cho đền Hóa một vẻ đẹp thâm u, huyền bí, thoát tục. Không khí linh thiêng trong đền quyện mùi nhang trầm, hương hoa, giữa mùa hè mà ở đây yên tĩnh dịu mát. Sau màn che, cửa võng là ánh đèn nến lung linh đưa con người về với tổ tiên, cội nguồn dân tộc nơi xa xưa, con người yêu nhau, hòa hợp với thiên nhiên, đánh giặc và xây dựng quê hương đất nước. Cách đây trên dưới 4000 năm lịch sử như trong thần phả của đền hóa đã ghi. Sau khi đức thánh Chử Đồng Tử kết duyên cùng Tiên Dung công chúa tại bãi tự nhiên thuộc Màn Chầu (cuộc tình duyên do thiên định), không được vua cha thuận ý lên vợ chồng. Không giám hồi cung, hai vợ chồng thánh ở lại khu vực huyện Chu Diên để kiếm kế sinh nhai. Một hôm Chử Đồng Tử theo thuyền ra khơi đi buôn bán, dạt vào một hòn đảo, gặp được Tiên Ông tên là Ngưỡng Quy Tiên, ông thấy Đồng Tử diện mạo khác thường bèn giữ lại dạy cho một số bài thuốc chữa bệnh bằng lá rừng để cứu dân độ thế và dạy cho phép thuật. Sau 3 ngày ở động tiên, Đồng Tử đã biết được việc chữa bệnh, Tiên Ông cho phép Đồng Tử về, ban cho Đồng Tử chiếc gậy và nón và dặn: " Phép thần thông ở cả trong này, có việc gì nhà người cần kíp cứ cắm trượng xuống đất, úp nón trên đầu trượng, đọc câu thần chú mọi việc sẽ được như ý muốn ". Trượng, nón được thờ tại đền Hóa Dạ Trạch Một ngày kia, trong làng bỗng có bệnh dịch tả, Đồng Tử cùng Tiên Dung đi chữa bệnh cho nhiều người. Một hôm, vì mải chữa bệnh nên khi trời tối, nhớ lại câu thần chú của Tiên Ông dạy, thánh Chử Đồng Tử liền chống cây gậy và úp nón để tạm nghỉ. Nửa đêm thức giắc thì thấy mình ở trong một tòa lâu đài nguy nga, tráng lệ. Vua Duệ Vương thấy vậy thì tưởng rằng con rể định cướp ngôi, vua liền đem quân ra đánh bắt về trị tội. Khi quân nhà vua đến, thì cả tòa lâu đài bỗng chốc biến đâu mất, để lại nơi đấy một cái Trầm, gọi là Trầm Nhất Dạ, đó là đêm 17/11 âm lịch. Do đó có sự tích " Đầm Dạ Trạch " mà chúng ta biết ngày nay. Tương truyền, khi quân Minh xâm lược nước ta, nhà Hồ thất thế, Nguyễn Trãi đến đền Hóa Dạ Trạch cầu đảo được thần báo mộng vào Lam Sơn, phò Lê Lợi chống giặc Minh xâm lược. Trong quần thể di tích còn có đầm Dạ Trạch. Đây là dấu tích của khu đầm Dạ Trạch rộng lớn trước đây, nơi Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục đóng quân doanh chống quân Lương xâm lược (thế kỷ 6) thắng lợi. Hàng năm, đền Hóa Dạ Trạch có bốn tiết chính: ngày 4/1 (âm lịch), ngày sinh của Tiên Dung công chúa; 10/2 ngày sinh của Hồng Vân công chúa; 12/8 ngày sinh Chử Đồng Tử; 17/11 ngày kỵ thánh. Lễ hội chính diễn ra từ ngày mùng 10 đến 12 tháng 2 (âm lịch), kỷ niệm ngày sinh Hồng Vân công chúa. Mở đầu là nghi thức rước nước từ sông Hồng về lễ thánh. Đám rước uy nghi, rồng vàng dẫn đầu, hội rước cờ, trống, phường bát âm, múa sinh tiền, bát bửu, kiệu long đình, kiệu chóe nước, kiệu đặt nón, gậy, kiệu “Bế ngư thần quan”, ba kiệu rước Chử Đồng Tử, Tiên Dung, Hồng Vân công chúa. Đám rước tới sông Hồng cũng là lúc thuyền rồng bên bãi Tự Nhiên (xã Tự Nhiên - Thường Tín - Hà Tây) ra chào đón, cùng tham gia hội. Trên sông cờ xí rợp trời, rồng vàng uốn lượn, tiếng hát, tiếng đàn, tiếng trống rộn ràng thúc. Một bô lão cao tuổi trong làng thận trọng múc từng gáo nước đổ vào chóe. Theo định kỳ cứ ba năm Dạ Trạch rước giao hiếu với Từ Hồ vào ngày 11. Đoàn rước ở lại tế lễ một đêm, sau đó rước về. Nếu khóa hội này Từ Hồ rước kiệu xuống tham gia tế lễ thì khóa sau Dạ Trạch rước kiệu lên. Đám rước tế tại khu vực đền Yến (khu vực đình, chùa Từ Hồ, tương truyền là nơi ông bà ăn yến tiệc trước khi về hóa tại Dạ Trạch). Năm hội nào Từ Hồ rước giao hiếu xuống Dạ Trạch, thì Dạ Trạch tổ chức rước du vào buổi sáng ngày 11. Đám rước qua thôn Đức Nhuận, Đông Kim, qua vườn ngô, bãi mía, thăm đầm Dạ Trạch để tưởng nhớ tới làng quê trù phú, lâu đài thành quách khi xưa. Trong ngày hội tổ chức hát trống quân, quan họ, ca trù và nhiều trò chơi dân gian như đập niêu đất, đi cầu kiều, bắt vịt trong ao, bịt mắt bắt dê…Nguồn: Cổng thông tin điện tử Khoái Châu Trở về đầu trang Đền Dạ Trạch Đền Hóa thánh Chử Đồng Tử Công chúa Tiên Dung Công chúa Hồng Vân thờ phụng lễ hội 0 Tổng số: 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10