Đền Dầm thờ Mẫu Đệ Tam - Mẫu Thoải (hay còn gọi Thoải Cung), một trong Tam Tòa Thánh Mẫu theo tâm thức của người Việt, bên cạnh Mẫu Đệ Nhất - Thượng Thiên và Mẫu Đệ Nhị - Thượng Ngàn. Xa hơn khoảng 3km về hướng nam, tại xã Hồng Vân còn có đền Xâm Thị cũng thờ Mẫu Thoải. Hai ngôi đền đó cùng gắn với sự tích Thánh Mẫu Đệ Tam hiển linh phù trợ vua tôi nhà Trần đánh thắng quân Nguyên.
Đền Dầm có tên chữ Xâm Dương Linh Từ, theo địa danh của thôn Xâm Dương, xã Ninh Sở, huyện Thường Tín, Hà Nội. Đền Dầm nằm trong cụm di tích tâm linh bao gồm: Chùa Công Minh, đền Mẫu Cửu, đền Dầm nằm sát tường nhau và đền Đại Lộ cách đó tầm 200 mét.
Quan niệm dân gian cho rằng, Mẫu Thượng Thiên cai quản
chung, Mẫu Thượng Ngàn cai quản miền rừng núi và Mẫu Thoải cai quản vùng sông
nước. Dân gian cũng cho rằng, sông nước gắn liền với sự sinh sôi, nảy nở. Nếu
muốn cầu cho mùa màng bội thu, cây cối tươi tốt, tài lộc đầy nhà thì họ thường
cầu lên Mẫu Thoải.
Đối với những người theo Đạo Mẫu, đầu xuân, họ hành hương đến
các đền thờ chính của các vị Thánh Mẫu. Họ sẽ đến những đền, phủ chính thờ Mẫu
Thượng Thiên (Mẫu Liễu Hạnh), Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải. Nơi thờ chính Mẫu
Liễu là Phủ Tây Hồ (Hà Nội) và Phủ Giầy (huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định). Mẫu Thượng
Ngàn được thờ chính ở Đền Cô, xã Tân An, huyện Văn Bàn, tỉnh Lào Cai và Mẫu Thoải
ở Tuyên Quang (ngoài ra còn có các nơi phối thờ như đền Cờn (Nghệ An), đền Dầm
(thường Tín)….
Có thể nói Đền Dầm là một ngôi đền thiêng có từ thời nhà Trần.
Đây là một trong những ngôi đền có số lượng sắc Phong lớn nhất Việt Nam dưới
các triều Trần, Lê, Nguyễn sắc phong đến 28 lần (Trần triều 7 đạo, Lê triều 13
đạo, Nguyễn triều 8 đạo) - một kỷ lục về sắc phong, khó có đền phủ nào được như
vậy. Số lượng sắc phong này ngang với Phủ Tiên Hương - Nơi thờ của Mẫu Liễu Hạnh
tại Phủ Dày (Nam Định).
Đền Dầm gắn liền truyền thuyết “Hoàng Long công chúa bị đày
vì làm vỡ chén ngọc được chàng Liễu Nghị giải oan. Để trả ơn, nàng đã hiện lên
báo mộng giúp Hưng Đạo vương Trần Quốc Tuấn đánh thắng giặc ngoại xâm”.
Khi thắng trận trở về, ông dâng biểu lên vua báo công và nêu
rõ việc Ngọc Dung báo mộng. Vua sai sứ giả về Xâm Miện vào miếu (nay là đền Dầm)
bái tạ, và ban tặng sắc phong. Rồi lệnh cho nhân dân Xâm Miện đến kinh thành rước
sắc về để dân làng thờ phụng.
Các triều vua kế tiếp đều có sắc phong cho đền. Sau này để
tưởng nhớ công ơn của Hưng Đạo Vương đã trình tấu lên vua ban sắc phong cho đền
Dầm, nhân dân địa phương đã xây dựng một ngôi đền bên cạnh để thờ Hưng Đạo
Vương. Vì thế mà trong khuôn viên đền Trần bên cạnh đền chính, không chỉ có miếu
cô, miếu cậu mà còn có cả đền thờ Trần Hưng Đạo.
Ngoài ra, nếu chúng ta đến thăm đền Dầm các bạn cũng có thể
tìm hiểu và khám phá thêm một ngôi đền khác cũng thờ Mẫu Thoải đó là đền Xâm Thị
chỉ cách đền Dầm chỉ chừng 2km. Đền Xâm Thị có cùng tích về Mẫu Thoải tương tự
như đền Dầm. Đây được coi là hai đền chính của Mẫu Thoải gắn với tích Mẫu Thoải
hiển linh phù vua Trân Nhân Tông đánh giặc Nguyên.
Thần phả Đền Dầm
Thần phả Đền Dầm về Mẫu Thoải cũng không có gì khác nhiều với
thần tích về Mẫu Thoải tại vùng Tuyên Quang. Tóm tắt thần phả về Mẫu Thoải tại
đền Dầm như sau:
Vào thời kỳ sơ khai mở nước Văn Lang ta, trên thiên đình có
nàng tiên nữ thứ 3 đến chầu thượng đế, chẳng may làm vỡ chén ngọc, trăm quan
nghị tội, giáng xuống thủy cung làm con gái Thủy Quốc Động Đình Long Vương, sau
gả cho Đô Đốc Côn Bằng đại tướng quân Kinh Xuyên.
Vợ lẽ của Kinh Xuyên là Thảo Mai, thấy nàng tài sắc bèn đem
lòng ghen ghét, giả làm 1 bức thư, tố cáo với Kinh Xuyên vu nàng tư thông phản
bội chồng. Kinh Xuyên giận dữ đầy nàng xuống trần thế, 10 năm sống ở núi Ngọc Hồ
Kim Quy, làm bạn với chim muông cầm thú, sinh sống bằng hoa trái qua ngày. Một
hôm thấy gió lướt mặt hồ, mây đùn lưng núi, tưởng nhớ quê nhà, thương cha nhớ mẹ,
lòng buồn bã rối bời, nhân đó nàng ngâm 1 bài thơ rằng:
"Từ biệt Kinh Xuyên trải mấy thu
Trời xanh mây lượn nhớ quê nhà
Tiêu dao trần thế bao ngày tháng
Cố hương thủy quốc biết nao về."
Tiếng ngâm chưa dứt mà dòng lệ chứa chan, tựa vào gốc cây,
tinh thần mê man lúc say lúc tỉnh.
Lại nói thời ấy có 1 người ở xã Ngọc Lạp, huyện Thanh Miện,
phủ Hồng Châu, đạo Hải Dương, họ Liễu, tên Nghị, là danh sĩ thời bấy giờ. Một
hôm Nghị cùng 1 vài tên ra đồng chèo thuyền đến Ngọc hồ ngắm cảnh, để hưởng thú
vị ngư ông. Thuyền đến hồ Kim Quy, bỗng nghe tiếng ngâm thơ văng vẳng, lời lẽ
thảm thê, trong lòng lấy làm lạ, bèn nói với bọn ra đồng đi theo rằng:
"Không biết thần tiên hay ma quỷ mà lại có lời lẽ thê thảm đến như vậy."
Ông bèn cho người dừng thuyền bên bờ quan sát thấy người con
gái tuổi độ 18, mi xanh như liễu rủ, má thắm tựa hoa đào, dẫu tiên nữ ở cung
trăng, hay phi tần nơi thượng giới, cũng không thể hơn được. Ông cười và bảo rằng:
- Cốt cách trần thế mà dáng vẻ thần tiên, may mắn nay gặp
gỡ, nếu không phải là trăng rằm thì cũng là băng tuyết quy hòa nhập lại.
Nhân đó ông mới hỏi về nguồn gốc nguyên do, người con gái ứa
lệ thưa rằng:
- Thiếp vốn là con gái Động Đình Quân là vợ của Kinh
Xuyên, chẳng ngờ thiên xứ dáng họa vô cớ, nay may gặp ngưởi tốt ở đây, dám xin
người có kế sách gì cứu giải oan khiên, thiếp nguyện thề có sông núi không quên
ơn nghĩa.
Liễu Nghị lại hỏi:
- Dương gian thủy quốc cách biệt lấy gì mà nghe thấu được?
Nàng nói:
- Thiếp có một cây kim thoa trao cho ngài, cảm phiền đi đến
bờ biển Đông Hải, hễ thấy cây Ngô Đồng thì cầm cây Trâm gõ vào ba tiếng tất thảy
thủy cung sẽ đều nghe biết.
Nói xong nàng đưa một phong thư nói rõ sự việc rồi đưa thư
và cây Trâm cho Liễu Nghị. Sau khi từ biệt người đẹp Liễu Nghị gắng sức lên đường,
qua bẩy ngày đêm đến cửa biển Đông Hải (nay là cửa Diêm Hộ huyện Thái Thụy tỉnh
Thái Bình) bỗng thấy cây ngô đồng cổ thụ, ông làm đúng lời người con gái dặn,
tay cầm kim thoa gõ vào gốc cây ngô đồng, bỗng thấy một con rắn trắng nổi lên
khỏi mặt nước, Liễu Nghị đem sự việc trên nói với rắn, rắn trắng rẽ nước đưa
ông về thủy phủ. Đến nơi ông vào bái yết Long Vương trình rõ sự việc và đem thư
cùng trâm vàng dâng lên. Long Vương xem xong thư bèn truyền rắn trắng đưa Liễu
Nghị về lầu Nam dọn tiệc khoản đãi. Ngay hôm đó truyền sai con trai là Xích Lân
và quân thủy tiến thắng đến xứ Ngọc Hồ Kim Quy đón công chúa về thủy quốc.
Ngày mùng 9 tháng Giêng vua Long Vương gả công chúa cho Liễu
Nghị và phong làm Phò Mã Quốc Tể quận công đồng thời cho cùng ở thủy phủ với
công chúa. Sai lục bộ thủy tề đầy Kinh Xuyên và Thảo Mai về Ngọc Hồ Kim Quy.
Lại nói từ khi công chúa về thủy quốc tất cả dân hai bên bờ
sông Cái từ thượng nguồn nơi Ngọc Hồ Kim Quy đến hạ lưu Ba Lạt - Thái Bình đều
mắc bệnh dịch. Dân chúng cùng quan lại bèn lập đàn cầu nguyện và dâng biểu lên
Thượng đế. Trang Xâm Miện, xã Xâm Thị, huyện Thanh Đàm (nay là Xâm Dương, Ninh Sở,
Thường Tín, Hà Nội) vào nửa đêm dân làng đều nghe thấy tiếng chó sủa liên hồi
và mơ thấy một người con gái mình mặc áo trắng mang đai ngọc lưu ly ngự trên rồng
vàng bay lên từ mặt nước nói rằng:
- Ta là con gái động đình Long Vương, Thủy Tinh Ngọc Dung
Công Chúa, Thượng đế sắc phong cho ta giúp nước cứu dân cõi Nam Giao, nay dân
chúng gặp tai họa ta phụng lênh thượng đế đến cứu giúp.
Sau được bình yên lên dựng miếu thờ viết thần vị thì ắt được
nhân khang vật thịnh.
Trời sáng các vị bô lão cùng dân làng ai cũng nói có cùng giấc
mơ như vậy, và bệnh tật dần tiêu tan hết. Dân làng bèn cùng nhau xây dựng ngôi
miếu thờ hàng năm Quốc cầu, dân đảo đều linh ứng rõ rệt.
Đền Dầm tương truyền có từ thời Trần và từng được các vua
ban sắc phong rất nhiều: thời Trần 7 đạo, thời Lê 13, thời Nguyễn 8. Tổng cộng
28 đạo sắc như vậy là ngang với Phủ Dày, nơi thờ Mẫu Liễu Hạnh. Đáng tiếc trong
đền hiện nay chỉ còn giữ được 6 đạo, trong đó sắc sớm nhất mang niên hiệu Đức
Long thứ 5 (1633) của vua Lê Thần Tông và muộn nhất là năm Khải Định thứ 9
(1924).
Thần tích về sự hiển linh của Mẫu Thoải giúp Trần Nhân Tông
chống quân Nguyên Mông tại đền Dầm.
Vào thời Trần Nhân Tông giặc Nguyên Mông xâm phạm bờ cõi nước
ta, đức Vua mới ban búa Việt Cờ Mao cho Hưng Đạo Đại Vương tiết chế thủy lục
chư binh chống giặc. Một lần, Hưng Đạo Đại Vương kéo quân qua Xâm Dương trời đà
xẩm tối bèn cho quân sỹ thuyền bè neo đậu lại bên sông nghỉ lại.
Đương đêm bỗng thấy sóng nổi cát bay mây trời vần vũ, một chốc
bỗng thấy mặt nước long lanh ánh bạc một người tiên nữ mặc áo trắng, đai lưu ly
cưỡi rồng vàng bay lên mặt nước. Vương cả kinh nhưng tiên nữ bèn nói:
- Ta phụng mệnh thượng đế hộ quốc an dân, nay Quốc Công Tiết
Chế hành quân qua đây xin âm phù giết giặc.
Quả nhiên ít lâu sau thuyền giặc kéo qua Xâm Dương thì bỗng
dưng nổi sóng to gió lớn thuyền bè quân lương đều chìm cả, giặc chết vô số.
Các trận chiến trên Tây Kết, Hàm Tử, Chương Dương Đô, Đông Bộ
Đầu....Đều có Thánh Mẫu linh phù làm sóng to gió lớn chìm tàu bè giặc chết
đuối nhiều giúp quân ta thừa thắng.
Vận nước thái bình, triều đình luận tội phong công. Quốc
Công bèn làm biểu tâu lên rõ sự việc linh phù ở Xâm Dương. Triều đình luận công
Thánh Mẫu ban thưởng cho dân Xâm Dương tiền bạc xây dựng ngôi đền to lớn và ruộng
đất để lo việc cúng tế hàng năm đồng thời sắc phong cho Thánh Mẫu.
Không gian kiến trúc Đền Dầm
Có thể nói, đền Dầm là một ngôi đền cổ kính có từ xa xưa là
một trong số ít các đền phủ vẫn còn giữ được vóc dáng kiến trúc cổ, ít bị pha tạp.
Đền rộng, kiến trúc cổ, cột gỗ và mái ngói cũ ngả màu thời
gian cùng khuôn viên thoáng đãng.
Kiến trúc bên trong đền Dầm
Cổng đền cao rộng, có ba cửa vào, sáu trụ xây, trên đắp nghê chầu, hoa văn, câu
đối tỉ mỉ, tường đắp long mã, nhưng vắng nét cổ xưa. Vôi quét màu vàng, nâu
theo lối bây giờ. Sân Đền khá rộng lát gạch. Bên trái chánh điện có gốc đa cổ
thụ, theo tài liệu đã 800 năm. Gốc đa có nhiều rễ phụ biến thành gốc như cây đa
Tây Thiên.
Chánh điện là một nếp nhà dài, mái ngói vảy cá thô dày (vảy
cá xưa mỏng thanh hơn), cột gỗ sơn nâu, năm bậc cấp lên chánh điện láng xi
măng. Trong Đền các hương án, bàn thờ đều chạm trổ rất công phu và đều sơn son
thếp vàng.
Các triều vua kế tiếp đều có sắc phong cho đền. Nhân dân cũng
không quên xây một miếu để thờ Hưng Đạo Vương ở nơi đây. Vì thế mà bên cạnh đền,
không chỉ có miếu cô, miếu cậu còn có miếu thờ Trần Hưng Đạo.
Lễ hội Đền Dầm
Lễ hội chính của Đền Dầm kéo dài hai ngày từ mùng 5 đến mùng
7 tháng 2 âm lịch, nhưng thực tế lễ hội kéo dài mười ngày từ mùng 1 đến hết
ngày 10 tháng 2 hàng năm . Ngoài phần lễ thì phần hội có rước nước, múa rồng,
múa sư tử, kéo chữ, cờ người, hát quan họ, chọi gà.
Đền nằm ngay ven sông Hồng, chính vì thế mà ngày nay, thường
có tour du lịch bằng thuyền qua các Đền dọc theo sông Hồng như: Chữ Đồng Tử
(Hưng yên), đền Dầm, đền Đại Lộ (gần đền Dầm), làng gốm Bát Tràng.