Đền Đồng Nhân tọa lạc tại phố Hương Viên, phường Đồng Nhân, quận Hai Bà Trưng, Hà Nội. Từ nhiều thế kỷ qua, nơi đây là ngôi đền thờ Nhị vua Hai Bà Trưng, linh thiêng bậc nhất ở kinh đô Thăng Long.
Hàng năm ngoài dịp lễ hội, đền Đồng Nhân còn mở cửa thường
xuyên cho du khách viếng thăm. Đặc biệt trong những ngày Tết, nhân dân thủ đô
và khách thập phương đến đây tưởng niệm công đức Hai Bà Trưng, cũng chiêm bái ở
hai bên đền các ban thờ Phật, thờ Mẫu trong chùa Viên Minh và ban thờ thành
hoàng trong đình làng Đồng Nhân.
Tương truyền, Nhị vua Hai Bà Trưng tự vẫn trên sông Hát, khí
thiêng hóa thành hai tảng đá trắng trôi về Thăng Long, đến bến Đồng Nhân, ban
đêm thường phát sáng rực rỡ. Dân làng thấy vậy, bèn lấy vải đỏ rước tượng và lập
đền thờ Hai Bà ở ngay bãi Đồng Nhân ven sông. Đó là vào năm 1142, đời vua Lý
Anh Tông, niên hiệu Đại Định thứ ba. Đến năm Gia Long thứ 18 (1819), do đất bị
lở nên dân làng phải dời ngôi đền tới khu Cựu Võ Sở của triều Lê ở thôn Hương
Viên, nhưng vẫn giữ tên đền cũ. Làng Đồng Nhân khi đó thuộc huyện Thanh Trì, tỉnh
Hà Đông. Từ 17/7/1914, chính thức sáp nhập vào địa phận Hà Nội.
Đền Đồng Nhân xây theo kiểu “nội Công ngoại Quốc” trong một
khuôn viên 4000m2, có tường bao ngoài. Trước mặt đền có một nguyệt hồ khá lớn,
xung quanh cây cối xum xuê. Từ ngoài đi vào khoảng sân rộng của cụm di tích,
qua cổng nghi môn với bốn cột trụ gạch, bên trái là tấm bia lớn cưỡi lưng rùa
dưới bóng cổ thụ, bên phải là một phương đình kiểu hai tầng tám mái có đôi rồng
chầu, phía sau bàn đá và cột cờ.
Nhà tiền tế 7 gian có hàng hiên thấp nhưng mái rất rộng, từ
sân trước lên hiên gạch có thềm rồng, các bậc ở giữa mới được thay bằng một bức
phù điêu bằng đá chạm cảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi dẫn đoàn nữ binh đánh đuổi giặc
Hán. Tiền tế nối với hậu cung bằng tòa thiêu hương xây 2 tầng 8 mái. Một hành
lang rất dài từ gian bên của tiền tế đi dọc cạnh thượng điện và dẫn thẳng đến sân
sau, nơi có các cửa ngách mở thông sang chùa Viên Minh qua bức tường hồi. Tại sảnh
tiền tế có bày tượng hai con voi thờ bằng gỗ sơn đen, ngà của voi là ngà thật.
Giáp tường hồi lại có bia đá và các văn bản giới thiệu di tích. Trong tòa thiêu
hương đặt ngai thờ và một bức khảm thể hiện hình tượng Hai Bà Trưng cưỡi voi
đánh giặc.
Ở hậu cung có tượng vua chị Trưng Trắc mặc áo vàng, vua em
Trưng Nhị mặc áo đỏ cùng 6 nữ tướng hai bên, trong đó bao gồm tượng các vị Lê
Chân, Hòa Hoàng, Thiên Nga, Nguyễn Đào Nương, Phùng Thị Chính. Hiện trong đền vẫn
còn giữ được khá nhiều các đồ tế khí sơn son thếp vàng như bát bửu, lộ bộ, các
bức hoành phi, câu đối có niên đại thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20, nội dung ca ngợi
công đức Hai Bà Trưng.
Câu đối ở đền Đồng Nhân.
神威弎載蕩平恢蜀趙劉漢淪彊山河生色
靈蹐千秋昭著吏丁李陳黎往牒庙貌長新
Thần uy tam tải đãng bình khôi, Thục Triệu Lưu Hán luân cường,
sơn hà sinh sắc
Linh tích thiên thu chiêu trứ lại, Đinh Lý Trần Lê vãng điệp,
miếu mạo trường tân.
Dịch:
Oai thần ba năm dẹp yên khắp, thay mạnh Thục Triệu Lưu Hán,
núi sông sắc sinh
Tích thiêng ngàn thu sửa rạng ngời, trải đời Đinh Lý Trần
Lê, miếu đền đẹp mãi.
Trên sân rộng trước bái đường có tấm bia Trưng Vương sự tích
bi ký, do tiến sĩ Vũ Tông Phan, một nhà giáo nổi tiếng của Hà Nội soạn năm 1840.
Bia khắc chữ một mặt, khổ 105x153cm. Toàn văn gồm 13 dòng, 400 chữ Hán, nội
dung ca ngợi Hai Bà là bậc “Nam bang tiết liệt”, hô một tiếng mà các quận Cửu
Chân, Hợp Phố và 65 thành ở lĩnh ngoại đều hưởng ứng, dựng nước xưng vương dễ
như trở bàn tay, uy danh lẫy lừng khắp Lĩnh Nam, tiếng tăm khắp cả Hoa Hạ. Mưu
trí như Mã Viện mà bị thua trận, thanh thế quân ta đã làm cho người Hán phải mất
ăn mất ngủ mấy năm.
Để tỏ lòng tôn kính Hai Bà, từ mồng 4 tháng Hai, làng đã vào
đám bằng tế nhập tịch; mồng 5 là hội rước nước. Đám rước đi từ đền ra phố Huế,
lên Hàng Bài đến tận đền Bà Kiệu ở Hồ Gươm, rẽ ra Cột đồng hồ ở phố Trần Nhật
Duật, rồi đưa choé xuống thuyền ra giữa sông Hồng lấy nước về nấu với trầm
hương để tắm tượng. Hai lão bà trong làng, tính cách khiêm nhường, đức hạnh, được
dân cử để tắm tượng, mặc áo mới cho Hai Bà trong ngày hội lớn.
Hội đền Hai Bà đến nay vẫn giữ được cốt cách riêng và là lễ
hội có quy mô lớn trên đất Hà Nội. Hội diễn ra từ chiều mồng 4 đến hết ngày 7
tháng Hai. Chính hội ngày 5 và ngày 6 tháng 2. Chiều mồng 4 tế yết mở cửa đền,
mồng 5 tế nữ quan. Sáng mồng 6, trước sự có mặt của hàng ngàn người dự hội, có
chương trình biểu diễn nghệ thuật, tái hiện cảnh Hai Bà Trưng cưỡi voi đánh giặc.
Tiếp sau lễ mít tinh long trọng trên sân đền có trò đấu vật, múa roi, múa sư tử.
Giữ tục lệ đẹp, vào 12 giờ trưa có rước cỗ ông chủ. Sau đó là tế hội đồng của 4
xã kết chạ.
Ngày 4-4-1926, tại sân đền Đồng Nhân, đông đảo nhân dân Hà Nội
đã long trọng tổ chức lễ truy điệu nhà chí sĩ yêu nước Phan Chu Trinh, thể hiện
tinh thần đoàn kết chống thực dân ngay giữa thủ phủ của xứ Đông Dương thuộc
Pháp. Ngôi đền đã được Bộ Văn hóa xếp hạng là Di tích Lịch sử Quốc gia ngay đợt
đầu tiên năm 1962.
Hàng năm ngoài dịp lễ hội, đền Đồng Nhân còn mở cửa thường
xuyên cho du khách viếng thăm. Đặc biệt trong những ngày Tết, nhân dân thủ đô
và khách thập phương đến đây tưởng niệm công đức Hai Bà Trưng, cũng chiêm bái ở
hai bên đền các ban thờ Phật, thờ Mẫu trong chùa Viên Minh và ban thờ thành
hoàng trong đình làng Đồng Nhân.
Nam Bình