Đền thờ Đông Hải Long Vương, con thứ 25 của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Vì kiêng huý chữ “Đông” nên dân gian mới gọi tên đền là Đuông, ngài cai quản cả vùng Bồ Sao, trị thuỷ sông Hồng, thu nạp dân phiêu tán vì lũ lụt về khai phá trại ấp, giữ yên tĩnh cho các làng chạ suốt vùng châu thổ, từ Ngã ba Hạc ra tới cửa biển.
Cách thành phố Vĩnh Yên 20km, nằm trên đường du lịch theo
tuyến quốc lộ 2 về thăm đất tổ Hùng Vương, Đền Đuông được xây dựng trên một gò
đất cao thuộc xã Bồ Sao, huyện Vĩnh Tường. Với không gian yên tĩnh và thoáng
đãng, đền Đuông thích hợp là điểm du lịch tâm linh vào những ngày cuối tuần,
ngày lễ…
Đền thờ Đông Hải Long Vương, con thứ 25 của Lạc Long Quân và
Âu Cơ. Vì kiêng huý chữ “Đông” nên dân gian mới gọi tên đền là Đuông. Theo truyền
thuyết kể lại rằng: Đông Hải Long Vương được Hùng Vương giao cho cai quản cả
vùng Bồ Sao, trị thuỷ sông Hồng, thu nạp dân phiêu tán vì lũ lụt về khai phá trại
ấp, giữ yên tĩnh cho các làng chạ suốt vùng châu thổ, từ Ngã ba Hạc ra tới cửa
biển .Các triều đại phong kiến sau này đều
sắc phong cho ngài là “Đông Hải Long Vương tế thế chi thần”.
Thuở xưa, làng Bồ Sao nằm ở ngã ba sông Bạch Hạc, nơi gặp gỡ
của 3 con sông lớn: Sông Thao, Sông Lô, Sông Đà, ngày đó chưa có đê bảo vệ. Một
năm xảy ra nạn đại hồng thủy, Vua Hùng sai hai con là Định Giang Quan và Đông Hải
Quan đi trị thuỷ giúp dân.
Sau khi trị thuỷ xong, Vua Hùng phong tước cho Đông Hải Quan
là Đông Hải Quan Lang, đóng bản doanh tại làng Bồ Sao để chăm lo đời sống nhân
dân. Còn Định Giang Quan ở lại đất Diệm Xuân.
Nói về công lao to lớn của Đông Hải Quan Lang nhân dân làng
Bồ Sao đã ghi nhận và lưu truyền trong dân gian như:
“Lạc hồng ân tứ dân địch cát,
Bị hận trạch vạn vật hàn
thanh.”
Tạm dịch:
“Nhờ ơn lớn bốn dân
được tốt,
Chịu ơn dày vạn vật đều
thông”
Trong thời gian ở làng, phu nhân Đông Hải Quan Lang sinh hạ
được một người con gái vào ngày 15 tháng 5 năm Giáp Tuất, đời Hùng Quốc Vương,
đặt tên là Thục Nương, huý là Mục sau gọi là Mục Trinh công chúa.
Một thời gian sau, Đông Hải Quan Lang được gọi về đô thành,
làm vua được 3 năm thì hoá vào ngày 12 tháng 3 dưới triều Quốc Vương cùng với
Bách Vương. Ngày 12 tháng 9, Hoàng hậu và công chúa cùng hoá ở làng Bồ Sao.
Để tưởng nhớ công ơn, nhân dân đã lập đền thờ tại nơi Ngài
đóng bản doanh. Các triều đại đều sắc phong ông là “Đông Hải Long Vương tế thế
chi thần”. Đền trải qua nhiều năm thờ cúng, được suy tôn là “Nam Quốc linh từ”
tức “Đền thiêng nước Nam”.
Hoà cùng dòng chảy lịch sử, từ văn hoá Hùng Vương xuống văn
hoá Kinh Bắc - Thăng Long, trải qua bao biến cố thăng trầm, đền Đuông vẫn hiện
hữu một dáng vẻ thâm nghiêm, linh thiêng và cổ kính. Hiện nay, đền Đuông còn
lưu giữ được nhiều cổ vật có giá trị, đồng thời là tâm điểm của những phong tục,
lễ hội cổ truyền với những nghi thức phong phú, đặc sắc nhất vùng.
Trong đền hiện đang lưu giữ khoảng 70 cổ vật và quần thể tượng
võ sĩ, nô tì được làm bằng đất nung, sơn son thếp vàng rất tinh xảo, các đồ thờ
cúng có từ thời Nguyễn vẫn giữ được nguyên vẹn như: đỉnh đồng, đèn đồng, sập thờ,
đài nến, ngai thờ, kiệu, các bức hoành phi, câu đối, v.v…
Du khách đến đây sẽ được chiêm ngưỡng 10 pho tượng cổ còn
lưu giữ được: Đông Hải Long Vương, Thụy Minh Thái phu nhân, Mục Trinh công
chúa, quan văn, quan võ, lưỡng sư Đồ đồng có đỉnh và 4 cây đèn to cao, màu đen
bóng. 3 pho tượng thờ phụng tại đền là: Đông Long Vương, Hiển ứng Tế thế đại
vương, con thứ 25 của Lạc Long Quân và Âu Cơ trong bọc trăm trứng; Cung phi
Hoàng hậu, phu nhân của Đông Hải Quan Lang, tên huý là Thanh, quê gốc ở Châu
Hoan; Thục Trinh công chúa Hoàng Bà, huý là Mục- con của Đông Hải Quan Lang và
Hoàng Hậu.
Hiện nay, đền Đuông còn giữ được 16 sắc phong có từ thời Vua
Cảnh Hưng triều Lê, đời vua Quang Trung triều Tây Sơn, triều Nguyễn thời Vua
Gia Long (1745-1925) và cuốn Ngọc phả ghi rõ về thần tích, lịch sử đền Đuông.
Nằm hài hoà với thiên nhiên, giữa những cánh đồng, đền Đuông
có kiến trúc hình chữ Công. Hai toà tiền đường và hậu cung được nối với nhau bằng
ống muống. Toàn bộ công trình có 48 cột, hình chum, phình ở giữa và thuôn hai đầu.
Các cột đều kê trên đá tảng, chia làm 4 hàng vững chắc. Các kèo làm lối kẻ chuyền,
bào trơn đóng bén. Thượng lương đặt trên giá chiêng. ống muống có cấu trúc hai
tầng mái kiểu chồng diềm mỗi cạnh 6m nổi lên thành lầu chuông, lầu trống.
Ba pho tượng cổ còn lưu giữ đến ngày nay.
16 đạo sắc phong từ thời Hậu Lê đến thời Nguyễn được dịch ra và trưng bày tại đền.
Hai cây đại có niên đại hàng trăm năm
Đền Đuông được xếp hạng di tích lịch văn hóa cấp Quốc gia năm 1993
Mái của đền được lợp bằng ngói mũi hài, mái xoè rộng uốn
cong mềm mại ở các góc. Các góc mái có các đầu đao, mỗi đầu đao được đắp hình rồng,
đường nét tinh xảo đến lạ kỳ. Đền Đuông được xây dựng từ xa xưa nhưng qua nhiều
lần trùng tu đến nay kiến trúc của đền chủ yếu mang đặc trưng kiến trúc thời
Nguyễn (thế kỷ XIX).
Do ảnh hưởng của chiến tranh, chuông cũ của đền Đuông đã bị
thất lạc. Từ nhiều năm nay đền Đuông không có chuông. Để tưởng nhớ công ơn của
Đông Hải Long Vương, thể theo nguyện vọng của nhân dân Bồ Sao, năm 2014, được sự
nhất trí của các cấp có thẩm quyền, Ban quản lý di tích đền Đuông đã đúc 01 quả
chuông bằng đồng đỏ với kích thước chiều cao 1,5m, chiều rộng 0,70m; mẫu chuông
theo Sắc phong thời Lê- năm 1740, 01 quả trống và hiện nay đang lập các thủ tục,
hồ sơ đề nghị Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch cho phép xây dựng lầu chuông, gác
trống trong khuôn viên đền.
Hàng năm, dân làng Bồ Sao tổ chức 7 ngày lễ tiệc để tưởng nhớ
công ơn trị thuỷ an dân của Đông Long Vương, gồm: Ngày mồng 4 tháng giêng mở hội
du xuân của các vị thần linh; ngày mồng 7 tháng giêng kỷ niệm ngày sinh của
Hoàng Hậu; ngày 12 tháng 3, ngày hoá của Đông Long Vương; ngày 15 tháng 5, ngày
sinh Công chúa Hoàng Bà; ngày 24 tháng 5, ngày sinh Đông Long Vương và Bách
Vương; ngày 12 tháng 9, ngày chính tiệc quốc tế của ba vị tại đền Đuông; ngày
24 tháng 11, kỷ niệm triều Lê phong sắc.
Trong các ngày lễ tiệc thì tiệc kỷ niệm ngày sinh công chúa
Hoàng Bà là ngày lễ lớn nhất có nhiều trò tục hay và thu hút đông khách thập
phương. Tiệc bắt đầu từ ngày 12 tháng 5 là ngày mở cửa Đền. Nhân dân trong vùng
sửa lễ xôi, gà ra tế lễ, du khách thập phương đến lễ bái (ngày 13 tháng 5 là
ngày dâng lễ của hai vị thủ từ, lễ gồm có 30 chiếc bánh dầy và 16 bát chè kho;
ngày 14 tháng 5 là ngày dâng lễ cúng của dân làng gọi là chính tiệc).
Buổi sáng ngày 14 dân làng tổ chức lễ rước kiệu rất long trọng,
nhân dân khắp vùng nô nức dự lễ hội. Kiệu được rước một vòng từ cổng chính phía
đông về cổng phía tây. Trong đoàn rước có đội múa lân, phường nhạc bát âm, cờ,
trống rộn ràng. Các kiệu rước gồm có kiệu rước mâm ngũ quả, kiệu rước sắc phong
các triều đại. Trên kiệu rước gươm, bông biểu trưng cho âm, dương ngày sinh của
Công chúa Hoàng Bà. Đây là ngày đông vui nhất trong 4 ngày lễ tiệc của đền dịp
kỷ niệm ngày sinh Công chúa.
Ngày 15 tháng 5, là ngày chính tiệc của Công chúa, vào buổi
chiều ngày 15 tháng 5, tại đền tổ chức lễ cướp bông, gươm. Bông biểu trưng cho
tính âm, gươm biểu trưng cho tính dương. Bởi vậy gươm- bông là biểu tượng cho
âm dương hợp đức. Trong lễ cướp gươm- bông, ai muốn sinh con gái thì cướp bông,
ai muốn sinh con trai thì cướp gươm, tạo nên một không khí sôi động, tưng bừng
của lễ hội.
Cuối buổi ai là người đem được bông, gươm vào đền thì người
đó thắng cuộc. Sáng ngày 24 tháng 5 tức là ngày sinh Đông Long Vương, ra lễ đền
nhận bông, gươm mang nguồn tạo phúc về nhà.
Đến với đền Đuông, chúng ta không những thoả mãn được nhu cầu
về du lịch tâm linh mà du khách còn có dịp tham gia vào phiên chợ quê, được họp
cách Đền khoảng 100m. Vào những buổi sáng sớm với những món quà quê hấp dẫn và
lí thú phần nào phản ánh được cuộc sống sinh hoạt của người dân xã Bồ Sao, huyện
Vĩnh Tường.
Với những giá trị phong phú cả về văn hoá vật thể và văn hoá
phi vật thể, đền Đuông là nơi hội tụ những tâm thức dân gian, phản ánh những ước
vọng ngàn đời về một cuộc sống thanh bình, no đủ, hạnh phúc...
Hiện nay, đền Đuông đang bị xuống cấp nhiều hạng mục di
tích. Đề nghị các cấp, các ngành và nhân dân quan tâm đầu tư, hỗ trợ, công đức
kinh phí để tu bổ, tôn tạo nhằm góp phần gìn giữ, bảo tồn và phát huy các giá
trị di tích lịch sử văn hóa đặc sắc này trong đời sống kinh tế, văn hoá, xã hội
của địa phương.
Lê Văn Thắng
Phó trưởng Phòng Văn
hóa và Thông tin huyện Vĩnh Tường