Đền Khai Quốc thuộc xã Cấp Tiến, Tiên Lãng, Hải Phòng là di tích lịch sử văn hóa hình thành từ thời Đinh, thờ 3 vị tướng họ Trương là Trương Phương, Trương Tề, Trương Tụy cùng Thần Thiên Quan Bình Lãng và Bạt hải Đại vương, vua Đinh phong tặng Ngũ vị đẳng thần tại Kinh Lương là những vị thần giữ Biển Đông của đất nước.
Đền Khai Quốc thuộc xã Cấp Tiến, Tiên Lãng, Hải Phòng là di
tích lịch sử văn hóa hình thành từ thời Đinh, thờ 3 vị tướng họ Trương là
Trương Phương, Trương Tề, Trương Tụy cùng Thần Thiên Quan Bình Lãng và Bạt hải
Đại vương, vua Đinh đã dành kính tặng Ngũ vị đẳng thần tại Kinh Lương, những vị
thần giữ Biển Đông của đất nước.
Hiện trạng Chùa Đọt Sơn - Nghĩa trang Liệt sĩ ở huyện Tiên Lãn.
Theo Thần tích Thần sắc về Đình- Đền Khai Quốc Kinh Lương,
sau khi vua Đinh xưng đế, đặt tên nước là Đại Cồ Việt, đánh dấu một thời kỳ độc
lập tự chủ, đạo thủy quân xâm lược Ma Na đã sang đánh nước ta.
Vua Đinh, cùng với các vị tướng vùng đất Cảnh Thanh là
Trương Phương, Trương Tề, Trương Tụy, với sự giúp đỡ của Thần Thiên Quan Bình
Lãng (Thần Bình Biển) và Bạt hải Đại vương (Thần Biển), từ Trang Cảnh Thanh vượt
sông qua An Định, đã làm lên Chiến thắng Bạch Đằng lần thứ hai trong lịch sử
vào năm 980.
Sau chiến thắng, các vị tướng của vua Đinh cùng toàn bộ đạo
hùng binh của mình đã hóa thần, tạo thành một quả núi lớn tại Trang Cảnh Thanh.
Thương xót công thần, Vua Đinh đã phong các vị tướng của
mình là Mạnh Tướng Đăng Kinh Đại Vương, Hỏa Thần Đống Duy Đại Vương, Thiên Quan
Bình Lãng Đại Vương và Thần Kỳ Cửa Chùa Đại vương và dành 300 quan tiền xây dựng
Đình Đền Khai Quốc, chuẩn cho muôn đời được thờ phụng, cùng hưởng phúc lành với
đất nước.
“Công cao hộ Quốc vạn niên trường
Đức đại an dân thiên cổ thịnh”
là hai câu đối mà vua Đinh đã dành kính tặng Ngũ vị đẳng thần
tại Kinh Lương, những vị thần giữ Biển Đông của đất nước.
Bài viết đăng trên báo Nhân Dân điện tử về vùng đất linh
thiêng của Hải Phòng này:
Vùng đất được coi là “chính linh” của Tiên Lãng, huyệt đạo của
Hải Phòng, nơi quê nhà của Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, có ngôi chùa cổ nhất
Việt Nam và nơi thờ Ngũ vị đẳng Thần gìn giữ biển Đông ít người biết đến. Đó
chính là vùng đất mà xưa kia được gọi là Trang Cảnh Thanh, nay là Kinh Lương, Cấp
Tiến.
Kinh Lương, trước là Kinh Thanh, Cảnh Thanh, huyện Bình Hà,
phủ Nam Sách, Hải Dương. Đây là nơi có đình Khai quốc Kinh Lương, đền Khai quốc
Đống Duy và chùa Đót Sơn, trung tâm Phật giáo Việt Nam từ thế kỷ thứ V đến trước
năm 1945.
Trong cuốn Văn Bia Tiên Lãng do PGS.TS Đỗ Thị Hảo, Chủ tịch
Hội Văn nghệ Dân gian Hà Nội cùng các cộng sự sưu tầm, biên dịch, chú giải vào
năm 2008, vùng đất Kinh Lương chỉ còn lại một tấm bia duy nhất nhưng có niên đại
sớm nhất được dựng ở chùa Đót Sơn (chùa Đót) với tên Hoàng Đồ Củng cố Đót Sơn Tự
Di Đà Phật Bi và toàn bộ tám văn bia khác đã bị thất lạc.
Bia đá Hoàng Đồ Củng cố Đót Sơn Tự Di Đà Phật Bi
Tuy nhiên, sau khi nghiên cứu và khảo cứu tại Viện Viễn Đông
Bác Cổ Pháp, Viện Cao học thực hành và Viện Nghiên cứu Hán Nôm, trong cuốn Thư
mục Thác bản Văn khắc Hán Nôm Việt Nam, vùng đất Kinh Lương có các bia gồm bia
về Đình Khai quốc Kinh Lương như Tân Tạo hậu Thần bi, về chùa Đót Sơn (Chuyết
Sơn) như Hoàng Đồ củng cố Đót Sơn Tự di Đà Phật Bi, Tân tạo Bồ Đề La Hán Bi ký,
Tạo thạch Phật Bi, Tân Tạo Thiên đài trụ, Tín Thí, Tân tạo xế giai hậu phòng
hành lang bi.
Vốn là vùng đất chính linh của Tiên Lãng và huyệt đạo của vùng,
Kinh Lương được nhắc đến trong nhiều thần tích và thần sắc của các triều đại
phong kiến và trong các văn tịch liên quan đến Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Đã có rất nhiều sắc phong của các triều đại tại đây. Đến thời
kỳ nhà Nguyễn, 13 đạo sắc phong đã được ban cho Ngũ vị Đẳng thần. Toàn bộ các
thần tích và thần sắc về vùng đất này vẫn được lưu giữ tại Viện Thông tin Khoa
học, Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.
Cũng giống Thánh Gióng, những vị thần được thờ tại Kinh
Lương là những bậc hộ quốc công thần và được ân điển cho muôn đời thờ phụng.
Trong miếu có năm bài vị thờ Ngũ vị Đẳng thần gồm Bạt Hải Hữu
vi Vô danh Thần vị; Bình Lãng Hữu vi Vô danh thần vị; Mạnh tướng húy danh
Phương Thần vị; Đống Duy húy danh Tụy Thần vị và Thần kỳ Cửa Chùa húy danh Tề
Thần vị, ghi bằng chữ Nôm.
Bạt hải Đại vương tôn thần, vị thần “hữu vi, vô danh” tức có
nhiều công giúp nước nhưng không biết đến danh tính, là một vị thần liên quan
trực tiếp đến biển. Ngài Thiên Quan Bình lãng Đại Vương, cũng là vị Hữu vi Vô
danh, là vị thần giúp nhân dân bình được sóng gió.
Ba vị Mạnh Tướng Đăng Kinh Đại Vương, Hỏa thần Đống Duy Đại
Vương, Thần Kỳ Cửa Chùa Đại Vương, là những vị Nhãn Thần, được coi như những
con mắt dõi theo và bảo vệ dân. Do đó có thể nói Ngũ vị Đẳng thần này liên quan
trực tiếp tới Biển Đông của Việt Nam.
Ân chuẩn thờ phụng các Ngài còn mãi cho đến khi đình, đền,
chùa bị tàn phá trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp. Sự tàn phá và quên
lãng một di sản quan trọng của đất nước là một điều rất đáng tiếc.
Theo Văn tịch về Thần Tích và Thần Sắc về làng Kinh Lương được
lưu giữ tại Viện KHXH Việt Nam, đây là nơi thờ Ngũ vị Đẳng Thần gồm Mạnh Tướng
Đăng Kinh Đại Vương (Nhãn thần), Hỏa thần Đống Duy Đại Vương (Nhãn thần), Thiên
Quan Bình Lãng Đại Vương (Thiên thần), Thần Kỳ Cửa Chùa Đại Vương (Nhãn thần)
và Bạt Hải Đại Vương Tôn Thần (Thiên thần). Những vị này đã giúp Vua Đinh Bộ
Lĩnh sau khi xưng đế phá tan đạo thủy quân xâm lược Ma Na và hóa thần ngay sau
khi giặc giã. Vua Đinh Bộ Lĩnh đã phong thần để nhân dân muôn đời thờ cúng.
Theo Địa chí Hải Phòng (1990), đoạn về vùng đất Tiên Lãng có
viết “Nền văn hóa Tiên Lãng phát triển sớm. Đạo Phật du nhập vào mảnh đất này từ
thế kỷ V, VI. Khoảng thời gian ấy, Tiên Lãng đã xuất hiện một trung tâm Phật
giáo ở Chùa Đót (Cấp Tiến) với kiến trúc quy mô, bảo tháp và tượng Phật đồ sộ.
Xã Cấp Tiến Huyện Tiên Lãng, Hải Phòng nay là xã Kinh Lương,
Huyện Tân Minh, Phủ Nam Sách xứ Hải Dương xưa) có ngôi chùa tối cổ, Cổ tự Non
Đông - Chùa Đót Sơn nay, nơi được coi là Hồn thiêng Sông núi, là nơi tu hành của
Thánh tổ Huyền Quang (Thích Quảng Đông). Ngôi chùa này hoàn toàn biến mất trên
bản đồ Phật Giáo Việt Nam do sự biến thiên của lịch sử và cuộc kháng chiến chống
Pháp trong những năm 1950.
Chùa Non Đông được xây dựng với quy mô lớn với tên gọi Non
Đông Tự. Khuôn viên của Chùa rộng 8 mẫu trong đó có hai mẫu vườn, một mẫu ao và
năm mẫu ruộng. Ngôi Chùa chính nằm ở Hướng Đông với 100 gian và hoành phi câu đối
có ghi dòng chữ Non Đông Tự. Xung quanh chùa chính có hành lang rộng 3 mét. Đằng
sau, phía tây có 100 pho tượng La Hán bằng đá. Hai dãy nhà ngang, một quay hướng
Bắc và một quay hướng Nam theo kiều răng bừa, phía sau nhà chính mỗi dãy 50
gian. Xung quanh hay dãy nhà ngang đều có hành lang rộng 3 mét. Chùa có một quả
chuông nặng năm tấn.
Chùa Đót đã hoạt động liên tục suốt các triều đại Lý, Trần,
Lê, Mạc … kích thích sự ra đời của hàng chục ngôi chùa khác ở Tiên Lãng, trong
đó có hẳn một kho chứa kinh đặt ở Chùa Thiên Tộ (Phác Xuyên – Bạch Đằng)”. Chùa
Đót Sơn, nơi cùng với Chùa Hang ở Đồ Sơn, lưu lại dấu tích của nhiều nhà sư Ấn
Độ trong buổi đầu Phật giáo được truyền bá sang Việt Nam.
Tấm bia dựng tại chùa Đót Sơn Hoàng Đồ Củng cố Đót Sơn Tự Di
Đà Phật Bi, dựng năm 1491, cho biết “chùa có từ đời nhà Lương (505-543), trải
qua các đời Lý Trần, con vị Quản lão ở bản xã cùng vị sư trụ trì đứng ra sửa
chùa quy mô to lớn”. Như vậy, có thể khẳng định chùa Đót được xây dựng trước cuộc
khởi nghĩa của Lý Nam Đế với sự ra đời của nước Vạn Xuân và được coi là một
trong những ngôi chùa cổ nhất của Việt Nam.
Chùa Đót Sơn đầu tiên có tên gọi là Chuyết Sơn (Tiếng Phạn
(Hindi) Juisan – có nghĩa nơi tràn ngập không khí kỷ niệm của Phật giáo). Chùa,
sau đó, được đổi tên thành là chùa Non Đông vào thế kỷ thứ 10 và trở lại là Đót
Sơn vào năm 1941. Đây là ngôi chùa gắn liền với Đức tổ Huyền Quang (Đệ Tam
thánh tổ của Phạt giáo Trúc Lâm Yên Tử), Thánh tổ Non Đông và là kinh đô của
Pháp Môn Tịnh Độ Thiền tông.
Chùa hiện vẫn còn cây bồ đề được các nhà sư Ấn Độ mang sang
khi truyền đạo vào thế kỷ thứ 6 và được coi là cây bồ đề gốc Phật giáo của Việt
Nam. Năm 1491, trong lần vãn cảnh chùa sau khi chùa được phục dựng lại, Vua Lê
Thánh Tông đã có bài thơ viết tại đây, được lưu lại trong văn bia của chùa. Bài
thơ đó là:
“Đót Sơn tên gọi
Sải vải dựng xây
Vẹn tròn tượng Phật
Nền phúc căng đầy… ”
Chùa cũng đổi tên thành chùa Đót Sơn từ thời điểm này.
Trước Cách mạng Tháng Tám, vùng đất Kinh Lương vẫn nổi tiếng
với đình Kinh Lương, đền Đống Dõi (Duy) và chùa Đót Sơn với ba giếng thần. Đến
năm 1947, Thượng tọa Thích Thanh Lạc trụ trì chùa tròn 100 tuổi, thầy đã tự
thiêu ở Sự Đồng Kệ. Trước khi hỏa táng, Thầy đã nói “Ta hỏa táng để Phật pháp
được trường tồn”.
Trong kháng chiến chống Pháp, giai đoạn 1945-1954, chùa Đót
Sơn cũng như đình Kinh Lương là những căn cứ cách mạng quan trọng. Theo một số
cán bộ lão thành cách mạng, nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười đã từng ở tại chùa để chỉ
đạo kháng chiến khi ông là Chính ủy Quân khu Tả ngạn. Kinh Lương đã trở thành
nơi chiến địa ác liệt nhất.
Và trong thời gian này, trước sự ác liệt của cuộc chiến
tranh, chùa Đót Sơn, đình Kinh Lương và đền Đống Duy đã bị phá hủy. Hòa thượng
Thích Thanh Dũng cũng hy sinh trong trận càn của Pháp năm 1953.
Đót Sơn ngày nay đã trở thành Nghĩa trang Liệt sĩ. Toàn bộ
các tượng Phật và tượng thần bằng đá đều bị thất lạc. Theo bà con trong vùng,
sau khi hòa bình lập lại, các cột đá ở tam quan cũng như nhiều văn bia đã được
sử dụng để xây Cống Nẻ.
Đất của chùa, đình và đền đã bị giao cho nhiều hộ gia đình.
Ngôi chùa chỉ còn lại là một am rất nhỏ, vốn là chiếc bếp xưa của chùa và một
cây bồ đề trên nghìn năm tuổi.
Đình, đền và chùa bị phá hoàn toàn vào cuối năm 1953 và đầu
1954.
Giá trị lịch sử và tâm linh: Cổ tự Non Đông - kinh đô của
Thiền phái Pháp môn tịnh độ Thiền Tông
Theo những nghiên cứu mới nhất, Phật giáo được truyền bá vào
Việt Nam bằng đường biển và địa danh mà nhiều nhà nghiên cứu Phật giáo Việt Nam
ghi nhận là nơi bắt đầu của Phật giáo đó là khu vực ven biển trước khi được thiết
lập tại Luy Lâu, Bắc Ninh.
Hai địa danh Phật giáo quan trọng của khu vực ven biển vốn
thuộc Châu Nam Sách xưa, nay thuộc Hải Phòng, được xác định là một trong những
nơi bắt đầu của Phật giáo trên vùng Đồng Bằng Bắc Bộ là Chùa Hang Đồ Sơn và
Chùa Non Đông xưa hay Chùa Đót Sơn tại xã Cấp Tiến, Huyện Tiên Lãng, Hải Phòng
ngày nay.
Văn bia của Chùa hiện còn được lưu giữ và được in trong cuốn
Văn Bia Tiên Lãng, ghi nhận Chùa được xây dựng trong những năm 505-543 vào thời
kỳ nước ta chịu sự đô hộ của nhà Lương Trung Quốc.
Đây cũng là thời kỳ của Thiền sư Ấn Độ Vinitaruci - Tỳ ni đa
lưu chi truyền bá Phật giáo vào Việt Nam và Trung Quốc. Theo wikipedia.org,
Ty-ni-đa-lưu-chi được trình bày như sau: Tỳ-ni-đa-lưu-chi (zh. 毘尼多流支,
sa. vinītaruci), ?-594, cũng được gọi là Diệt Hỉ (滅喜), là Thiền
sư Ấn Độ sang Trung Quốc tham học, môn đệ đắc pháp của Tam tổ Tăng Xán và là
người khai sáng thiền phái Tì-ni-đa-lưu-chi tại Việt Nam.
Sư là người Nam Thiên Trúc (Ấn Độ), thuộc dòng dõi
Bà-la-môn. Sư thuở nhỏ đã có ý chí khác thường, đi khắp mọi nơi cầu học Phật
pháp. Năm 574, Sư sang Trung Quốc và nhân đây có cơ hội yết kiến Tam tổ Tăng
Xán tại núi Tư Không. Thấy cử chỉ uy nghiêm của Tổ, Sư bỗng đem lòng kính mộ, đứng
trước vòng tay cung kính.
Tổ vẫn ngồi im nhắm mắt không nói. Sư đứng im suy nghĩ giây
lát bỗng nhiên tự ngộ, liền quì xuống lạy ba lạy. Tổ thấy vậy cũng chỉ gật đầu
ba lần. Sư muốn đi theo hầu Tổ nhưng Tổ lại khuyên đến phương Nam giáo hóa.
Sư sang Việt Nam khoảng cuối thế kỉ thứ 6 (~580), cư trú tại
chùa Pháp Vân (Chùa Dâu) tỉnh Bắc Ninh. Nơi đây Sư dịch bộ kinh Đại thừa phương
quảng tổng trì sau khi đã dịch xong bộ Tượng đầu tinh xá kinh tại Trung Quốc.
Tương truyền, nhiều nhà sư Ấn Độ đến Việt Nam để truyền đạo
bằng đường biển và cập bến ở Đồ Sơn. Sau khi làm lễ xong ở Chùa Hang, Đồ Sơn,
Các thiền sư Ấn Độ đi vào đường mòn, các nhà sư Ấn Độ đi men theo đường biển để
đến Chùa Non Đông. Sau khi vào Tam Quan, các vị sư Ấn Độ làm lễ và đi qua hai
hành lang để sang dãy nhà ngang và tu tại Chùa.
Phật giáo mà các nhà sư Ấn Độ truyền sang Việt Nam vào thời
điểm bấy giờ là Pháp Môn Tịnh Độ Thiền tông, một giáo lý Phật giáo mà bấy giờ
Việt Nam chưa có. Vậy, Phải chăng Sư đã ở Chùa Non Đông trước khi sang Trung Quốc?
Vào thời kỳ nhà Đinh, Phật giáo trở thành quốc đạo và được
triều đình công nhận. Hai anh em dòng họ nhà Đinh gồm Đinh Bộ Lan, em trai của
Vua Đinh Tiên Hoàng và Đinh Bộ Đông (947-999) em họ của Vua đã tu tại Chùa Non
Đông. Đinh Bộ Đông lấy tên pháp Huyền Quang Thích Quảng Đông và là vị sư trụ
trì chùa Non Đông trong khi Đinh Bộ Lan lấy tên pháp là Thích Quảng Bình. Hai vị
được coi là những vị tổ của trường phái Pháp môn Tịnh độ Thiền tông. Ngài Huyền
Quang viên tịch vào ngày 24 tháng giêng năm Kỷ Hợi 999, thọ 51 tuổi. Tài liệu
này có được từ Chùa Non Đông Đót Sơn Tiên Lãng.
Việt Nam Phật Giáo sử lược có đoạn viết "đến thời Đinh
Tiên Hoàng, khi Tiên Hoàng Đế định giai cấp văn võ, thì ngài triệu tất cả Tăng
sĩ lỗi lạc vào hàng Thái miếu và dính phẩm trật cho các Tăng-già. Ngài tặng chức
Khuông Việt Thái sư cho Pháp sư Ngô Chân Lưu, Pháp sư Trương Ma Ni làm Tăng lục
đạo sĩ và Pháp sư Đặng Huyền Quang làm Sùng Chân uy nghi. Tuy nhiên, Pháp sư Đặng
Huyền Quang chính là Pháp sư Huyền Quang của Chùa Non Đông bấy giờ.
Chùa Non Đông được
xây dựng với quy mô lớn với tên gọi Non Đông Tự. Khuôn viên của Chùa rộng 8 mẫu
trong đó có hai mẫu vườn, một mẫu ao và năm mẫu ruộng. Ngôi Chùa chính nằm ở Hướng
Đông với 100 gian và hoành phi câu đối có ghi dòng chữ Non Đông Tự.
Xung quanh chùa chính có hành lang rộng 3 mét. Đằng sau,
phía tây có 100 pho tượng La Hán bằng đá. Hai dãy nhà ngang, một quay hướng Bắc
và một quay hướng Nam theo kiều răng bừa, phía sau nhà chính mỗi dãy 50 gian.
Xung quanh hay dãy nhà ngang đều có hành lang rộng 3 mét. Chùa có một quả
chuông nặng năm tấn.
Cổng Tam Quan ở Hướng Đông Nam, ngoài cổng bên phải có cây
bàng, bên trái có bụi tre. Phía Tây có hai cột đá cao 7 mét. Phía Tây nam có bệ
đá Tam cấp trên thờ tượng Phật bằng đá. Lối vào Hậu cung có bốn bậc thềm và hai
bên Hậu cung có năm ông Hộ pháp tượng bằng đá.
Thời điểm bấy giờ, Phật giáo rất thịnh hành và Chùa Non Đông
là ngôi chùa lớn nhất trên Vùng Đồng Bằng Bắc bộ vào thời điểm đó và được coi
là Trung tâm của Phật giáo Pháp môn tịnh độ Thiền Tông.
Với sự hiện diện thường
xuyên của các vị Pháp sư Ấn Độ, vào mùa Kết Hạ, Chùa Non Đông đón 300 đến 400 vị
Chư Tăng tại nhiều vùng trong cả nước. Cơm được nấu bằng niêu đất và thực phẩm
đều tự cấy và trồng từ vườn của nhà Chùa.
Đồng tu với Pháp sư Huyền Quang còn có Đinh Bộ Lan, em ruột
của vua Đinh Bộ Lĩnh với tên Pháp là Thích Quảng Bình.
Công đức của Ngài đệ tam Huyền Quang hiện còn lưu lại qua
bài thơ được dân gian tại vùng của Chùa Non Đông – Chùa Đót Sơn truyền tụng:
Nam mô Đức Tổ Huyền Quang
Ngài đi soi xét mười Phương xa gần
Xem ai có đức có nhân
Xem ai chuyên cần lễ bái thành tâm
Xem ai tụng niệm Phật thầm
Xem ai già lão tín tâm lên chùa
Bầu trời cảnh Phật thanh đô
Có thuyền Bát Nhã có Hồ Trang xinh
Xem ai cứu được chúng sinh kẻ bần
Trẻ thì lắm lộc nhiều xuân
Già đi tụng niệm để thân nhờ trời
Đã đi làm phúc đừng cười
Của đi làm phúc muôn đời thọ khang
Đã đi làm vãi triền già
Nào ai sỉ báng thì ta được nhiều
Anh em phải có lòng yêu
Thì ta phải học cho nhiều văn kinh
Đến thời nhà Lý, vào cuối thể kỷ thứ X và đầu thế kỷ XI, sau
khi Pháp sư Huyền Trang (Đường Tam Tạng) qua Tây Trúc (Ấn Độ) thỉnh kinh và phổ
biến Phật giáo Pháp Môn Mật Tông tại đất nước Trung Quốc, giáo lý Phật giáo này
lan sang Việt Nam một cách mạnh mẽ. Cũng chính thời điểm này, vùng Luy Lâu, Thuận
Thành của Bắc Ninh đã nổi lên trở thành kinh đô của Phật giáo Pháp Môn Mật
Tông. Chùa Non Đông vẫn là một địa chỉ quan trọng của Pháp Môn tịnh độ Thiền
Tông.
Đến thời kỳ nhà Trần,
vua Trần Thái Tông đặt nền móng thống nhất các thiền phái hiện có như Tỳ-ni-đa-lưu-chi,
Vô Ngôn Thông, Thảo Đường, tiến đến sát nhập và hình thành dòng thiền Trúc Lâm
Yên Tử duy nhất đời Trần.
Có thể nói chính xác và cụ thể, người có công đặt nền móng
thiết lập cho thiền phái Trúc Lâm Yên Tử phát triển và truyền thừa từ mô hình tổ
chức đến nội dung hành trì, thể hiện bản sắc dân tộc là Trần Thái Tông nhưng
người khai sáng và làm rạng danh thiền phái là vua Trần Nhân Tông, là đệ nhất Tổ.
Vua Trần Nhân Tông
(1258-1308) sau hai lần lãnh đạo nhân dân kháng chiến chống giặc Nguyên-Mông thắng
lợi đã rời bỏ ngai vàng và xuất gia về Yên Tử tu hành (1299) lấy pháp hiệu Trúc
Lâm Đại Đầu Đà, sáng lập ra Thiền phái Trúc Lâm. Yên Tử trở thành Trung tâm Phật
giáo của Quốc gia Đại Việt.
Sau khi ông qua đời, người kế tục sự nghiệp là Pháp Loa Đồng
Kiên Cương, vị tổ thứ hai của dòng Trúc Lâm và Huyền Quang Lý Đạo Tái vị tổ thứ
ba của phái Trúc Lâm. Với tinh thần nhập thế và yêu nước, giáo lý Thiền phái
Trúc Lâm trở thành nền tảng tư tưởng dựng nước và giữ nước thời Trần, có ảnh hưởng
sâu sắc đến Phật giáo Việt Nam sau này.
Đệ tam Huyền Quang, (1254-1334), tên thật là Lý Đạo Tái, người
làng Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lang Giang (nay là huyện Gia Lương, tỉnh Bắc
Giang). Năm 19 tuổi, ông đỗ khoa tam giáo đời Trần, rồi làm quan trong triều đến
năm 51 tuổi. Tương truyền, ông chính là Tái thế của Đức tổ Huyền Quang của Chùa
Non Đông sau 250 năm. Tuổi Ngài bắt đầu xuất gia bằng đúng tuổi thọ của Ngài
khi Ngài ở Chùa Non Đông.
Năm 1330, sư Pháp Loa đem y bát của Điều ngự giác hoàng (tức
vua Trần Nhân Tông) truyền cho, giao lại cho Huyền Quang trước khi mất. Huyền
Quang lên tu ở núi Yên Tử và là tổ thứ ba của phái Trúc Lâm. Ngài viên tịch tại
Yên Tử ngày 24 tháng giêng năm 1334.
Chi tiết về vị tổ Huyền Quang còn rất nhiều điều chưa rõ
ràng. Trong cuốn “Việt Nam Phật Giáo Sử luận” của tác giả Nguyễn Lang, phần ghi
chép về thiền sư Huyền Quang vị tổ thứ ba của Giáo hội Trúc Lâm, không mang tên
tác giả và người hiệu khảo.
Phần này mang nhan đề là Tổ Gia Thực Lục,theo lời dẫn in ở
cuối thì vào khoảng những năm Tuyên Ðức nhà Minh (tức là vào cuối đời Hồ), một
bản Tổ Gia Thực Lục đã được thượng thư Hoàng Phúc người Minh lượm lấy đem về
Trung Hoa (hồi Minh thuộc, tướng Trương Phụ thu gom hết tất cả sách vở tại Ðại
Việt chở về Kim Lăng, ít sách đã còn có thể giữ lại). Hoàng Phúc thường nằm mộng
thấy Huyền Quang bảo phải gửi phải trả tập sách này về Ðại Việt, nhưng chưa có
dịp làm như thế.
Thấy Huyền Quang linh ứng, ông mới lập chùa thờ, đặt tên
chùa là “An Nam Thiền Sư Huyền Quang Tự”. Ðến khoảng năm Gia Tĩnh nhà Minh, Tô
Xuyên Hầu nhà Hậu Lê đi sứ sang Trung Hoa gặp được cháu bốn đời của Hoàng Phúc
là Hoàng Thừa, mới nhận được tập sách mang về nước. (Tô Xuyên Hầu tức là Lê
Quang Bí, làm quan đến chức Binh bộ thị lang, đậu hoàng giáp năm 1526).
Khi về nước ông đã đưa tập truyện Huyền Quang cho ông Nguyễn
Bỉnh Khiêm xem, từ đó sách lại được phổ biến. Lời dẫn nói rằng Hoàng Thừa, cháu
của Hoàng Phúc, cũng nằm mộng thấy Huyền Quang nhiều lần nhắn gửi tập sách về Ðại
Việt, cho nên khi Tô Xuyên Hầu qua, ông ta đã tìm gặp để gửi sách.
Đến năm 1491, dưới triều nhà Lê, trải qua hàng trăm năm,
Chùa Non Đông xuống cấp và được tu sửa lại. Vua Lê Thánh Tông trong lần vãn cảnh
chùa, đã tức cảnh bài thơ
Đót Sơn tên gọi,
Sãi vãi dựng xây
Vẹn tròn tượng Phật,
Nền phúc căng đầy
Lưu truyền mãi mãi
Cùng hưởng sum vầy
Góp phần công đức
Khắc đá minh này.
Bài thơ này được in trong Văn bia của Chùa và Chùa Non Đông
đã được đổi tên thành Chùa Đót Sơn từ thời điểm bấy giờ.
Những vị Hòa thượng của Chùa Non Đông - Đót Sơn
Chùa bây giờ là Bếp ngày xưa. Chùa có 5 gian: 1 gian kho để
nồi niêu, 4 gian bếp. Bếp ngày xưa đằng trước để trống. Nhà vệ sinh bây giờ là
đống dạ rơm. Mùa Kết Hạ các thầy Chư Tăng về Chùa tu 300 đến 400 Chư Tăng. Nấu
cơm niêu đất, thức ăn của Chư Tăng: rau trồng vườn, lạc vừng, gạo trồng, cấy ăn
được.
Các thầy tu đến giờ ăn các thầy tự xuống lấy cơm về phòng Thọ
Thực. Các thầy chỉ vừa đủ ăn, hứng nước mưa bằng cóng. Đến mùa Kết Hạ lo liệu
cơm nước là bà Thích Diệu Hoa, Đệ tử thầy Thích Thanh Tứ: Thích Thanh Đông,
Thích Thanh Hiền.
Thầy Non Đông: Thích Quảng Đông, Đệ Nhị Huyền Quang, Thầy Tịch
Yên Tử, Thầy Thích Quảng Bình, Đệ tử của thầy Non Đông, lo việc cày bừa cấy
hái, và cũng tịch ở Yên Tử. Thầy được coi là Quốc Sư An Tâm, vị tổ thứ tư của
Thiền Phái Trúc Lâm.
Đệ tử của thầy Thích Quảng Bình là Thích Thanh Lạc, Thích
Thanh Tứ. Thầy Thích Thanh Lạc trụ trì Chùa Non Đông Tự, thầy thọ 100 tuổi, thầy
tự Hỏa táng Sự Đồng Kệ phần mộ thầy tại chùa. Thầy không nuôi đệ tử.
Đệ tử của Thầy Thích Thanh Tứ: Đệ tử lớn: Thích Thanh Phú,
Thích Thanh Đông, Thích Thanh Hiền. Thầy Thích Thanh Tứ trụ trì Chùa Phương Lai
và cũng tịch ở Yên Tử). Thầy Thích Thanh Phú đệ tử lớn của thầy Thích Thanh Tứ
trụ trì chùa Non Đông Tự. Thầy tịch tại chùa, phần mộ Lăng cao.
Thầy Thích Thanh Dũng đệ tử thầy Thích Thanh Phú trụ trì
chùa Non Đông là chiến sĩ cách mạng và hy sinh trong trận chống càn của Pháp
năm 1953.
Hiện trạng của chùa Non Đông - Đót Sơn
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp giai đoạn 1945-1954, huyện
Tiên Lãng đã trở thành nơi đầu sóng ngọn gió và đã kiên cường đánh bại nhiều trận
càn của lính thực dân Pháp và tay sai. Bởi vậy có người đã ví Tiên Lãng như Đất
thép Củ Chi ở Sài Gòn thời chống Mỹ.
Nhưng cũng chính trong thời gian này, theo phong trào tiêu thổ
kháng chiến, Chùa Non Đông - Chùa Đót Sơn đã bị phá hoại. Bản thân Hòa thượng
Thích Thanh Dũng, cũng hy sinh trong trận càn của Pháp năm 1953 nhưng đến bây
giờ vẫn chưa được công nhận liệt sỹ mặc dù hồ sơ đã được gửi tới Sở Lao Đông
Thương Binh Xã hội Hải Phòng từ lâu.
Địa điểm của Chùa Đót Sơn đã trở thành Nghĩa trang Liệt sỹ
xã Cấp Tiến, Huyện Tiên Lãng. Toàn bộ các tượng Phật bằng đá đều bị thất lạc.
Theo bà con trong vùng, sau khi hòa bình lập lại, các cột đá ở tam quan đã được
sử dụng để xây Cống Nẻ, tượng phật bị vứt tại khu vực ao gần cây Bồ Đề nghìn
năm tuổi. Đất của Chùa đã bị giao cho nhiều hộ gia đình. Ngôi chùa chỉ còn lại
là một am rất nhỏ, vốn là chiếc bếp xưa của Chùa và một cây Bồ đề trên nghìn
năm tuổi. Những lăng tẩm của các vị tổ Chùa Non Đông bị phá và phần cốt bị thất
lạc.
Hiện nay, phần cốt của Ba vị tổ của Chùa Non Đông - Chùa Đót
Sơn đang được táng trước cửa Chùa nhỏ, nơi thải nước của các hộ dân xung quanh.
Chùa hiện không có sư trụ trì và người trông coi ngôi chùa là hai bà vãi, những
người có cơ duyên. Bản thân bà Chiêu, một trong hai bà vãi, người từng là y tá
đã từng phải đi hành khất khắp nơi để lấy tiền xây được thêm một gian của chiếc
am.
Nghĩa trang liệt sỹ xã cấp tiến, nơi từng là Tam Quan Chùa chính
Khu vực các vị thánh tổ nằm
Ngôi chùa này đã hoàn toàn bị quên lãng.
Trời đất xoay vần vẫn còn đây
Tam quan Chùa Đót tiếc dựng xây
Bóng mát cây đề là muôn thuở
Vinh hoa phú quý hưởng phúc đầy
Kết luận
Với một vị tổ linh thiêng của Việt Nam và Trung Quốc cũng đã
lập chùa để thờ, một ngôi chùa của dòng họ Đinh và một ngôi chùa có giá trị cao
về mặt tâm linh, lịch sử và văn hóa, sự biến mất của ngôi chùa là nỗi xót xa
cho những người dân trong vùng. Đã đến lúc giới học giả cần phải có những
nghiên cứu và chính quyền địa phương phải thực sự vào cuộc để khôi phục lại một
địa chỉ tâm linh, hồn thiêng sông núi của dân tộc.
Đúng 60 năm kể từ khi đình và đền Khai Quốc và chùa Đót Sơn
bị phá, hậu thế mới tiến hành phục dựng lại (vào năm 2009).