Nhắc tới Đình Kim Liên, mỗi người dân Việt Nam nói chung và Thủ đô Hà Nội nói riêng đều tự hào về công lao của vị Thần trấn giữ phía Nam kinh thành, giúp cho Thăng Long được bình yên, thịnh vượng suốt bao đời nay.
Theo thần tích cổ, Cao Sơn đại vương tên Hiển, là Lạc tướng
Vũ Lâm – con trai thứ 17 của Lạc Long Quân và Âu Cơ. Cai quản vùng núi phía
Tây Ninh Bình. Đền thờ chính của thần ở huyện Phụng Hóa, nay là đền Láo ở
xã Văn Phú, Nho Quan, Ninh Bình.
Ở Ninh Bình, thần Cao Sơn được thờ ở nhiều di tích thuộc
vùng núi Nho Quan - Tam
Điệp và là vị thần trấn trạch phía
tây Hoa Lư tứ trấn
Một thần tích khác là Cao Sơn đại vương hạ phàm ở thời Hùng
Vương thứ 18 (Hùng Duệ Vương), cùng với Quý Minh là đều em họ của Tản Viên, có công
giúp vua Hùng đánh thắng quân Thục Phán. Cao Sơn Đại vương sau này ngự ở ngọn
núi bên trái của dãy Ba Vì (Tản
Viên đứng giữa, bên phải là Quý Minh).
Theo thần tích ban đầu thì Cao Sơn Đại vương là con trai thứ
17 của Lạc Long Quân và Âu Cơ, Lạc tướng Vũ Lâm (Cao Sơn Đại Vương), theo lệnh
Hoàng huynh là Vua Hùng đời thứ nhất, trong các chuyến tuần thú, tướng Vũ Lâm
đã nhiều lần đánh dẹp giặc cướp, trừ khử thú dữ cho dânm tìm ra một loài cây thân có bột dùng làm bánh thay gạo,
lấy tên mình đặt là cây Quang lang (dân địa phương còn gọi là cây búng báng)
Năm 1509, khi Lê Mẫn (Uy Mục đế) hung bạo, thất đức muốn lật
đổ vua Lê Tương Dực, cướp ngôi, khiến đất nước lâm vào cảnh loạn lạc. Hàng triệu
người dân sống trong khốn cùng, tôn thất bị giết hại. Đức Vua Lê Tương Dực phải
vào Tây Đô lánh nạn. Tháng 11 năm Kỷ Tỵ (1509) vua dấy nghĩa binh quyết khôi phục
sự nghiệp của Cao Tổ.
Ba đại thần Nguyễn Bá Lân, Nguyễn Hoàng Dự, Nguyễn Văn Sử phụ
mệnh vua đem quân đi chinh phạt Lê Mẫn.
Đoàn quân đến huyện Phụng Hóa (Nho Quan, Ninh Bình) nơi núi
rừng rậm rạp bỗng gặp ngôi đền mái lợp tranh. Trong đền có tấm bia đá “Cao Sơn
Đại Vương”. Cả ba người ngạc nhiên, kính cẩn chắp tay cúi đầu cầu khẩn “Xin thần
Cao Sơn Đại Vương linh thiêng phù hộ cho chúng con trừ khử lũ bạo tàn cứu muôn
dân khỏi khốn cùng”. Thế rồi không đầy 10 ngày đã quét sạch lũ hung bạo, xua
tan bóng giặc nơi cung cấm.
Trong văn bia ở đền Kim Liên nhà sử thần Lê Tung có đoạn viết:
Cao Sơn lừng danh
Vòi voi uy linh
Hễ cầu là ứng
Ban khắp ơn lành
Thời gập vận rủi
Trời sinh thánh minh.
Sau khi dẹp loạn Lê Mẫn (Uy Mục đế), vua Lê Tương Dực cho
xây đền thờ Cao Sơn Đại Vương ở Phụng Hóa (nay có tên đền Láo ở xã Văn Phương
huyện Nho Quan, Ninh Bình). Năm 1510 vua cho xây dựng lại đền thờ “Cao Sơn Đại
Vương to đẹp ở phường Kim Hoa phía Nam Thăng Long. Do có công phù trợ
quân Lê Tương Dực diệt
được Uy Mục, dân làng Kim Liên rước về thờ và được phong là Cao Sơn đại
vương trấn Nam kinh thành Thăng Long.
Đình – đền Kim Liên vốn ban đầu nằm ở làng Đồng Lầm. Thời xa
xưa Đồng Lầm là vùng có tên đẹp Kim Hoa, tổng Tả Nghiêm, huyện Thọ Xương cũ. Đến
khoảng đầu đời Vua Thiệu Trị vì kiêng tên húy của Mẹ Vua là Hồ Thị Hoa, nên đổi
là Kim Liên, sau là tổng Kim Liên. Quá trình lịch sử, Đền được dùng làm trung
tâm hoạt động những việc lớn của làng, vì vậy đã mang chức năng của một ngôi
đình và gọi theo tên làng nên có tên là Đình Kim Liên như hiện nay.
Di tích đền Cao Sơn trở thành một hiện tượng đặc biệt về Hà
Nội xưa; vừa tạo dựng việc đánh dấu mốc giới phía nam Kinh thành thời cổ, đồng
thời tượng trưng cho sự canh giữ, bảo vệ cho Kinh thành. Cùng với thần Long Đỗ ở
đền Bạch Mã, thần Trấn Vũ ở đền Quán Thánh, thần Linh Lang ở đền Thủ Lệ họp
thành “Thăng Long tứ trấn” trên đất nội thành Hà Nội.
Đình được xây dựng trên gò đất cao ở phía đông đầm Kim Liên. Cổng đình và cửa chính điện đều hướng về phía tây, trông ra đầm Kim Liên (đầm này nay không còn do bị lấp đi để làm đường vành đai 1).
Kiến trúc của đền gồm 2 phần, phần trước có trụ biểu, một
sân gạch rộng. Đi hết khoảng sân, bước lên chín bậc gạch là phần kiến trúc
chính của đền, nằm trên gò đất cao. Nơi đây có nghi môn, đại bái và hậu cung.
Trong nghi môn, họa tiết trang trí rất sinh động, công phu.
Nhà đại bái gồm 5 gian. Hậu cung là nếp nhà 3 gian, gian
ngoài cùng có bệ cao để đặt hương án, gian thứ hai xây bệ cao đặt long ngai và
đồ tế khí. Gian cuối cùng là nơi thờ Cao Sơn Đại Vương và hai nữ thần phối hưởng
(Tôn nữ Động Hồ Trưng Vương công chúa – con gái vua Lê và Huệ Minh công chúa).
Bốn bộ vì đỡ mái, được làm theo kiểu chồng rường, giá
chiêng, cột trống. Các con giường được trang trí bằng kỹ thuật chạm nổi các
hình mây cuộn, câu đầu và 2 bẩy của hai vì ngoài được trang trí phượng hàm thư,
long mã, rồng chạm bong kênh, chạm lộng nhiều lớp.
Đền chính có kết cấu hình chữ đinh gồm bái đường và hậu
cung. Tòa bái đường, qua thời gian dài tồn tại, đến nay chỉ còn dấu vết để lại,
là một nền đất cao và những hàng đá tảng kê chân cột to, dầy.
Đến nay, tại Đình Kim Liên còn lưu giữ 39 đạo sắc phong cho
thần Cao Sơn Đại Vương, trong đó có hai sáu đạo thời Lê Trung Hưng, mười ba đạo
thời nhà Nguyễn; sớm nhất trong số đó là sắc phong có niên đại Vĩnh Tộ năm thứ
hai (1620).
Di vật quan trọng nhất của Đền Kim Liên là tấm bia đá rất lớn
bên cây si có gốc to hơn chục người ôm. Bia có khắc: “Cao Sơn Đại Vương thần từ
bi minh” do sử thần Lê Tung soạn năm 1510 nói về công lao của thần Cao Sơn Đại
Vương. Trong đền còn có 39 đạo sắc phong cho thần Cao Sơn Đại Vương (26 sắc
phong thời Lê Trung Hưng, 13 sắc phong thời nhà Nguyễn).
Một số công trình phụ khác: nhà Tả vu, Hữu vu; lát gạch xong
sân Đình; hoàn thiện hạng mục hồ bán nguyệt; hạng mục cổng, tường rào cũng đã
được xây dựng xong; đang triển khai thi công đường và giếng đình.
Trước đây, lễ chính hội đình Kim Liên thường diễn ra vào các
ngày từ 13 – 16/ 3 âm lịch hàng năm. Tuy nhiên, trong mấy năm trở lại đây, lễ hội
gói gọn lại chỉ trong 2 ngày 15 và 16/3.
Trong ngày chính hội, từ sáng sớm, người làng đã làm lễ tế ở
chính điện. Các bô lão trong đội tế nam của làng đứng trước sân đình tế cáo với
Thượng Đẳng thần Cao Sơn Đại Vương để người dân bước vào ngày chính hội cùng những
đại lễ bái rất bài bản.
Sau màn tế cáo, lễ dâng hương tổ chức trước sân đình, các
dòng họ dâng những mâm cỗ cầu kỳ tái hiện ẩm thực của người Hà Nội.
Trong kháng chiến chống Pháp, làng Kim Liên là cơ sở cách mạng.
Nhiều nhà lãnh đạo Đảng ta thường qua lại và ở đây. Các đồng chí, như: Nguyễn
Lương Bằng, Hoàng Văn Thụ, Hoàng Quốc Việt, Nguyễn Văn Trân, Trần Vỹ, Trần Sâm…
thường xuyên lui tới. Nơi đây còn là ATK (an toàn khu) của Mặt trận quân sự Hà
Nội thời tạm chiếm (1947-1954).
Đền Kim Liên còn có tên Đình Kim Liên là di sản văn hóa vật
chất đặc trưng biểu hiện khía cạnh văn hóa tâm linh của người Việt. Vào những
ngày mồng một, ngày rằm hàng tháng nhất là ngày 16-3 âm lịch (ngày sinh của thần
Cao Sơn Đại Vương) người dân làng Kim Liên lại tổ chức mở hội đón rước người dân
cả nước về dự lễ hội cùng tế lễ tưởng nhớ công ơn của thần Cao Sơn Đại Vương và
cầu xin thần ban cho niềm vui an lạc trong cuộc sống thanh bình.
Ngày 9/01/1990 Bộ Văn hóa thông tin và Du lịch đã xếp hạng Đền
Kim Liên là Di tích Lịch sử văn hóa, kiến trúc và Nghệ thuật cấp Quốc gia.
Ths Nguyễn Thy Ngà tổng hợp