Đền Lác Ba Vì thờ chủ vị là Tản Viên tam thánh: Sơn Thánh Tản Viên, Cao Sơn Đại vương, Quý Minh Đại vương, đồng thời phối thờ Thổ công và Phùng Lộc Hộ đại vương.
Ba Vì là huyện ở vùng bán sơn địa nằm ở phía Tây Bắc thành
phố Hà Nội. Nơi đây được mệnh danh là điểm hội tụ của những “danh lam cổ tích”
nổi tiếng như: Đình Tây Đằng, đình- chùa Chu Quyến… gắn liền với truyền thuyết
về Tam vị Đệ nhất Thượng đẳng phúc thần Tản Viên Sơn Thánh.
Đền Lác, xã Đồng Thái cũng là ngôi đền thờ các vị thần này.
Trải qua không gian và thời gian, di tích này vẫn hội tụ và tỏa sáng những giá
trị lịch sử - văn hóa với tên gọi giản dị và ngưỡng mộ mà nhân dân nơi đây quen
gọi theo tên Nôm là đền Lác (do ngôi đền nằm trên quả đồi có tên là đồi Lác).
Đền Lác được xây dựng khá sớm. Qua nhiều năm thăng trầm của
lịch sử dân tộc, đến nay đền Lác không còn giữ đựơc tư liệu nói về năm khởi dựng.
Để xác định được niên đại tương đối cho sự có mặt của ngôi đền, có thể dựa vào
các căn cứ sau: Căn cứ vào tấm bia đá có niên hiệu Chính Hòa 18
(1697), nói về việc tạo lập bia đá ngôi đền; Căn cứ vào các tư liệu điền dã tại
di tích thờ Tam vị Tản viên Sơn Thánh. Mặt bằng kết cấu kiến trúc chính đền Lác
có dạng tiền nhất hậu công gồm toà Tiền tế, Đại bái và Hậu cung, xung quanh là
nền sân đất và bức tường cổ đắp đất có xếp gạch ở giữa.
Đền Lác xây từ thời Lê, hiện còn tấm bia đá có niên hiệu
Chính Hòa 18 (1697). Toà tiền tế được làm muộn hơn vào thời Nguyễn. Trong
toà đại bái, chính điện thờ Tản Viên tam thánh (gồm Sơn Tinh, Cao Sơn,
Quý Minh), gian bên phải thờ Thổ công và gian bên trái thờ Phùng Lộc Hộ
đại vương. Trong hậu cung đền còn lưu giữ được 9 đạo sắc phong của các
triều đình đời xưa.
Nhìn trên bản đồ địa chính của xã Đồng Thái và không gian địa
văn hóa thì ngôi đền tọa lạc ở vị thế "đắc địa", di tích mở hướng Tây
Bắc có mặt bằng tổng thể cùng các đơn nguyên kiến trúc tương đối hoàn mỹ về kết
cấu, thể hiện sự đăng đối, hài hòa.
Tòa tiền tế được làm về sau này (thời Nguyễn), song gần như
không có sự khác biệt nhiều so với Đại bái và Hậu cung, độ cao mái và khung
lòng nhà tạo được sự đồng nhất với hai tòa sau, thể hiện ở bố cục và cách kết cấu
truyền thống. Từ cổng đền qua một khoảng sân đất khá rộng là tới Tiền tế.
Tiền tế là một toà nhà ngang với kết cấu 3 gian 2 chái, 4
mái đao cong. Bờ nóc để trơn không trang trí, hai đầu bờ nóc đắp cách điệu hai
con kìm, bờ dải và bờ guột cũng để trơn không trang trí. Các góc đao của Tiền tế
vốn được đắp vẽ cầu kỳ, song trải qua thời gian đã bị mai một, hiện chỉ còn lại
hai đao hậu còn trang trí hình tượng rồng. Mái lợp ngói ri cổ.
Không gian Tiền tế được để thoáng, không có hệ thống cửa
vây quanh. Tại 4 góc có các mái đao được xây vây một đoạn tường nhỏ, tạo thêm
phần chịu lực cho 4 góc đao. Phần tường này được xây bằng gạch thời Thành Thái,
có kích thước dày 4cm, dài 40cm và rộng 1cm, tương tự như gạch được chèn ở toàn
bộ tường trình bao quanh di tích.
Vào bên trong, tương ứng với 3 gian 2 chái là 4 bộ vì trên 4
hàng chân cột. Bộ vì các gian chính được kết cấu giống nhau theo kiểu: thượng
giá chiêng, chồng rường, hạ kẻ, bẩy, mái phân thượng tứ, hạ ngũ,
đặc biệt các hoành được làm là hoành vuông, phỏng theo phong cách đặc trưng
trong kết cấu kiến trúc thời Lê.
Riêng bộ vì gian giữa, tiền nhân đã làm trốn 1 hàng cột cái
phía trước, để lấy không gian cho các việc hội họp chính ở đền. Các gian bên vẫn
đủ hai hàng cột cái. Việc làm trốn cột cái này tạo kết cấu tương ứng là các xà
lòng, chịu lực cho 2 cột cái trốn chân vốn ít thấy ở các di tích khác.
Bộ vì hai gian chái được làm theo kiểu thượng chồng rường,
hạ kẻ. Các cấu kiện gỗ ở đây chủ yếu để trơn, không trang trí, thiên về độ bền
chắc. Một vài chi tiết chạm khắc cách điệu tập trung tại các bẩy hiên. Không gian
Tiền tế không bài trí các đồ thờ tự. Từ Tiền tế, qua một khoảng sân lọng là tới
Đại bái. Hai bên tường sân lọng có trổ thủng hai chữ lớn: Nghiêm và Túc.
Kiến trúc bên trong Đền Lác
Đại bái cũng là một ngôi nhà ngang 3 gian 2 chái, 4 mái đao
cong. Nhìn bên ngoài, bờ nóc mái để trơn không trang trí, các góc đao là hình
tượng rồng được đắp rất công phu, nghệ thuật tạo tác TK XVIII. Phần vì thượng
phía ngoài của hai gian đầu hồi được đắp hình tượng hổ phù ngậm chữ thọ, các diềm
của vì được đắp trang trí hoa lá rất tinh tế.
Vào bên trong, tương ứng với 3 gian hai chái là 4 bộ vì trên
2 hàng chân cột. Kết cấu các bộ vì gian giữa tương tự như Tiền tế. Riêng bộ vì
hai gian chái được gắn với khám lửng, dạng ván bưng ở vì thượng.
Không gian tòa Đại bái là nơi đặt gác lửng, được bưng
kín, bên ngoài được chạm khắc công phu hình tượng lưỡng long chầu nguyệt và nhiều
mảng chạm chim phượng rất tinh xảo, nghệ thuật chạm khắc cuối thời Lê.
Các đồ thờ cũng có niên đại thời Lê như bát hương gốm, long
ngai, bài vị... Đặc biệt, dưới chân khám còn đặt các hòn đá thiêng, tương truyền
là những hòn đá mà các Tam vị Tản Viên Sơn Thánh và Mẫu thân đã từng ngồi nghỉ
chân.
Gian ống muống nối đại bái với hậu cung có kết cấu bộ vì kiểu
ván bưng với các mảng chạm khắc tinh xảo hình tượng rồng phượng. Không gian bên
dưới bài trí 2 hương án gỗ có niên đại thế kỷ XVIII, trên bày các đồ thờ tự như
bát hương, chân đèn, đài nước... Hậu cung 3 gian, 4 mái đao cong, mái lợp ngói
ri cổ.
Nhìn bên ngoài, phần mái Hậu cung đền Lác được thiết kế rất
mềm mại, các đao cong vút, tại khúc nghuỷnh và 4 góc đao là các con sô, nghê bằng
gốm đất nung thế kỷ XVII, rất giống với các tạo hình ở phần mái ngôi đình làng
Tường Phiêu, xã Tích Giang, huyện Phúc Thọ, TP Hà Nội (ngôi đình có niên đại thế
kỷ XVII).
Bên trong, bộ vì được tạo tác tương tự như Trung cung, phần
gian giữa có khám lửng, là nơi đặt long ngai, bài vị Tam vị Tản Viên Sơn Thánh.
Điều đặc biệt ở đây là tại phần vì gian ống muống áp hậu cung, ngay phía ngoài
khám lửng được sơn đỏ - thể hiện sự uy nghiêm, tôn sùng thần nhân được thờ phụng.
Đây là đặc điểm đặc trưng trong các di tích cổ, thờ tự các vị
thần tối linh. Bên trong khám thờ đặt 3 cỗ long ngai, bài vị, có phong cách tạo
tác giống nhau, niên đại thế kỷ XVIII.
Với những giá trị lịch sử. văn hóa và khoa học nghệ thuật
quí giá, đền Lác- thôn Đồng Bảng- xã Đồng Thái đã được Bộ Văn hóa - Thể thao và
Du lịch ra Quyết định số 3093 ngày 23/9/2014 xếp hạng di tích Lịch Sử - kiến
trúc- nghệ thuât cấp Quốc gia.
Lễ hội đền Lác được tổ chức hàng năm vào tháng Giêng.
Khai hội mồng 6, đến ngày 7- 8 là chính hội, mồng 9 chuyển hoạt động vào đền
Trúc Lâm. Trong dịp này còn diễn ra nhiều trò chơi dân gian như: vật, chọi
gà, kéo co... thu hút đông đảo nhân dân sở tại và khách thập phương tham
gia.
Theo sử sách, tướng Phùng Lộc Hộ có công giúp vua nhà Trần
đánh đuổi giặc Nguyên Mông xâm lược lần thứ nhất vào năm 1257-1258. Ngài hóa
tại Gò Dung, thôn Dục Mỹ, xã Cao Xá, huyện Lâm Thao, tỉnh Phú Thọ. Người dân
thờ ngài tại các thôn Đồng Bảng, thôn Cao Lĩnh (xã Phú Sơn), thôn Hùng Vỹ (xã
Đồng Văn), và cả bên bờ phía bắc sông Hồng tại các nơi ngài dẫn quân đi
qua như: Thổ Tang (Vĩnh Tường - Vĩnh Phúc), Tứ Xã (Lâm Thao - Phú Thọ), v.v..
Vua Trần Thái Tông ban sắc phong Phùng Lộc Hộ là “Lân hổ hầu đô thống đại vương
thượng đẳng thần”. Các triều đại sau đó đã tặng thêm nhiều sắc phong và mỹ
tự cho ngài.