Đền Lăng Sương thuộc thôn Lăng Sương, xã Trung Nghĩa, huyện Thanh Thuỷ, tỉnh Phú Thọ, phụng thờ cả Thánh Mẫu Đinh Thị Đen và gia đình Thánh Tản Viên, một trong “Tứ bất tử” của Việt Nam. Vị trí của ngôi đền hiện nay cũng là nơi Tản Viên Sơn Thánh chào đời.
Không gian cổ kính giữa vùng đất sơn thuỷ hữu tình, nơi lưu
giữ huyền thoại về Đức Thánh Tản Viên Sơn, gắn với tín ngưỡng thờ “Tứ bất tử” của
dân tộc Việt Nam. Ngôi đền là điểm nhấn tâm linh trên vùng Đất Tổ Phú Thọ.
Lăng Sương còn là địa danh sinh ra mẹ Âu Cơ và cũng là nơi Lạc
Long Quân và Âu Cơ gặp nhau nên duyên vợ chồng sinh bọc trăm trứng, nở trăm con
- nguồn gốc của dân tộc Việt.
Thánh Mẫu Âu Cơ được coi là Tổ Mẫu - Mẹ huyền thoại của tất
cả dân tộc Việt Nam. Tín ngưỡng thờ Mẫu ở Lăng Sương hòa cùng với tín ngưỡng thờ
Mẫu chung của người Việt như: Mẹ Âu Cơ, Mẹ Đất, Mẹ Nước…Vì vậy, Mẫu được thờ tự
ở vị trí rất trang trọng trong đền Lăng Sương.
Khách hành hương đến lễn đều cảm nhận được vẻ linh thiêng,
trầm mặc và khi nhìn vào Thánh Mẫu đều thấy lòng mình như ấm lại, thanh thản,
nhẹ nhàng.
Những truyền thuyết của đất Lăng Sương
Huyện Thanh Thủy nằm ven sông Đà. Từ tiền sử hai nhóm tộc
người Âu Việt và Lạc Việt thường giao chiến để giành nguồn nước này. Người Âu
Việt (Tày, Thái cổ) từ mạn Tây Bắc theo sông Đà xuống tấn công vùng canh tác của
người Lạc Việt (Việt, Mường cổ) ở vùng Bạch Hạc, Phong Châu và Trung Châu. Người
Lạc Việt muốn giữ yên bờ cõi phía dưới phải phòng thủ ở phía trên thượng nguồn
sông Đà, mạn Hòa Bình, Thanh Thủy.
Truyền thuyết kể rằng Lạc Long Quân một lần đi xem xét hình
sông thế núi để bố phòng chặn đánh giặc cướp đã gặp người con gái xinh đẹp hái
dâu ở bãi Trường Sa Trung Lộ, bãi sông lớn kéo dài từ Tu Vũ xuống Trung Nghĩa.
Đó là nàng Âu Cơ.
Lạc Long Quân kết tóc
xe duyên với Âu Cơ rồi cùng về đất Bạch Hạc sinh sống. Ở đây Âu Cơ sinh ra bọc
trăm trứng, nở trăm người con trai. Người con trưởng lên ngôi xưng vương. Đó là
Hùng Vương thứ nhất của nước Văn Lang. Bà Âu Cơ đưa 49 người con lên ngàn khai
khẩn. Đó là đất Văn Lang huyện Hạ Hòa. Lạc Long Quân đưa 50 người con về khai
phá vùng biển.
Cũng ở đất Trung Nghĩa nơi Lạc Long Quân gặp Âu Cơ xưa, gần
700 năm sau xuất sinh Sơn Thánh Tản Viên. Thánh Tản Viên Sơn là con rể vua Hùng
thứ 18, gắn liền với truyền thuyết Hùng Vương kén rể tìm hiền tài truyền ngôi
báu, dẫn đến cuộc đọ sức quyết liệt giữa Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Theo ngọc phả kể lại, ở thôn Lăng Sương làng Trung Nghĩa xưa
có ông Nguyễn Cao Hành kết hôn với vợ là Đinh Thị Đen, người Mường ở Lịch Gia,
Mông Hóa, Hòa Bình.
Ngày 15 tháng Giêng năm Đinh Tỵ, tức năm 304 của thiên niên
kỷ thứ nhất trước Công nguyên bà Đen đã sinh ra người con trai đặt tên Nguyễn
Tuấn. Tuấn được người mẹ nuôi tên là Ma Thị Cao Sơn đưa sang núi Tản Viên học
thầy là tiên ông trên núi Tản.
Khi thành tài, Thánh đã cùng hai em con chú là Cao Sơn Đại
vương, Quý Minh Đại vương ra giúp vua Hùng đánh giặc giữ nước. Nguyễn Tuấn được
Vua Hùng gả Ngọc Hoa công chúa. Đức Ngài vừa là anh hùng trong chiến trận mạc,
vừa là phúc thần vì đã dạy dân đắp đê chống lũ lụt.
Sơn Thánh Tản Viên là hiển hóa của linh khí núi sông, có sức
mạnh vô biên. Tương truyền khi giao chiến với Thủy Tinh, để ngăn lũ lụt, Tản
Viên đã dịch chuyển đất đai thành núi Chẹ ở bờ bên kia làng Trung Nghĩa nơi ông
ra đời.
Vua Hùng thứ 18 không còn con trai nối dõi. Tản Viên Sơn
Thánh khuyên vua Hùng nhường ngôi cho Thục Phán để trăm họ được bình yên chấm dứt
chiến tranh liên miên nhiều trăm năm giữa hai bộ tộc Lạc Việt và Âu Việt, ra đời
nhà nước Âu Lạc mà Cổ Loa là Kinh đô. Nguyễn Tuấn vì có công lớn với dân tộc được
tôn là Tản Viên Sơn Thánh.
Người dân Trung Nghĩa kể rằng, cha của Thánh Tản, ông Nguyễn
Cao Hành đã di rời phần mộ tổ tiên lên vùng núi Thu Tinh huyện Thanh Sơn. Gia
đình ông chuyển lên đó sinh sống. Truyền thuyết ở Thanh Sơn cho biết một lần bà
Đinh Thị Đen qua đồng Móng làng Tất Thắng ướm chân vào vết chân khổng lồ trên một
hòn đá núi, khi về đầu thai Thánh Tản Viên.
Vì thế, Tản Viên là con của đất trời, có sức mạnh như đá núi.
Truyền thuyết về hòn đá bà ướm chân để thụ thai cũng như hòn đá Quỳ ở di tích đền
Lăng Sương nói đến tục thờ đá của người Việt vùng cao.
Xa xưa Lăng Sương là một thôn, bản của làng Trung Nghĩa. Sang
thời Lê, triều đình quy định các địa bàn cư trú của người thiểu số là động gọi
là các động Man (động của người Man) gọi theo cách phiếm chỉ của giới nhà nho
phong kiến để phân biệt với các thôn làng của người Kinh.
Người dân vùng cao ở trong các động như: động Lăng Sương,
Trung Nghĩa huyện Thanh Thủy, động Trúc Phê, Hưng Hóa, động Khuất Lão, Văn Lang
(huyện Tam Nông) động Tiên Du huyện Phù Ninh, động Hoa Khê ở thị xã Phú Thọ. Sau
có nhiều dòng người di cư lên Phú Thọ đã khiến cư dân ở các động Man dần chuyển
biến văn hóa mà đặt theo họ người Kinh.
Các họ gốc Mường ở Phú Thọ, đặc biệt ở Trung Nghĩa là Nguyễn,
Bùi, Đinh, Hà, Cao, Phùng, Quách. Còn gốc Tày là họ Ma. Có người đổi thành họ
Mai, họ Mè. Cha mẹ Tản Viên là người Lạc Việt, người Mường. Ngài lại có mẹ nuôi
là bà Ma Thị. Bà Ma Thị là người Tày Thái cổ.
Phú Thọ đất Tổ, nước Văn Lang của người Lạc Việt, Việt Mường.
Nhưng một bộ phận người Tày họ Ma lại không theo Thục Đế mà về theo vua Hùng. Đến
thời Hùng Duệ Vương tức Hùng Vương thứ 18, con cháu họ Ma người Tày còn ở Cẩm
Khê, thị xã Phú Thọ và ở cạnh núi Hùng.
Nay di tích còn lại dấu tích thành Mè, chợ Mè hay còn được gọi
là thành, chợ của người họ Mè, họ Ma và các tên xóm, bản tên động vẫn được gọi
theo ngữ hệ Tày Thái cổ. Tản Viên con bà Đinh Thị Đen, họ Mường nhưng lại có mẹ
nuôi họ Ma, họ của người Tày.
Đền Lăng Sương tọa lạc tại thôn Lăng Sương, xã Trung Nghĩa,
một xã miền núi tả ngạn sông Đà, có địa hình bán sơn địa, đồi, gò, núi non bao
bọc. Đền tọa lạc trên khu đất hướng nhìn ra dòng sông Đà xanh thẳm, lưng tựa
vào dải núi trùng điệp, tạo nên phong cảnh tựa sơn đạp thủy. Cách khu đến Lăng
Sương khoảng 50 mét về phía Đông Bắc, ngôi mộ của Thánh Mẫu Đinh Thị Đen đã được
xây thành lăng tẩm.
Cách khoảng một cây số về phía Đông Nam hữu ngạn sông Đà là
dãy núi Ba Vì, nơi có Tản Viên Sơn Thánh và hai người em con chú tọa trấn, sừng
sững uy nghiêm bốn mùa mây phủ hình thành một vùng non xanh nước biếc linh
thiêng huyền thoại.
Theo Ngọc phả còn lưu giữ, Đền Lăng Sương được xây từ thời
An Dương Vương. Đến đời Lê được trùng tu. Năm Thiệu Trị thứ 7 thời Nguyễn
(1847) ngôi đền được tu sửa lớn. Năm Tự Đức nguyên niên (1848) khắc bia đá lưu
truyền cho hậu thế.
Qua nhiều biến động lịch sử, ngôi đền bị hư hỏng nhiều. Năm
1991, chính quyền và nhân dân địa phương đã tôn tạo đền Lăng Sương trên khu đất
rộng với diện tích 3.000 mét vuông, bao gồm các công trình: Nghi môn đền, miếu
Hai Cô, giếng Thiên Thanh, nhà bia, nhà võng, tả mạc, hữu mạc và Lăng thánh Mẫu.
Nghi môn Đền có đôi câu đối:
Thiên giáng thánh nhân bình bắc địch
Địa lưu thần tích hiển
Nam bang.
Dịch nghĩa là:
Trời sinh thánh dẹp
giặc phương Bắc
Đất lưu thần tích hiến trời Nam.
Và câu đối:
Lăng Sương cốt cách ngọc tinh thần
Bả thác long linh giáng hạ trần
Dịch nghĩa là:
Lăng Sương địa thể ngọc tinh thần
Ba vị thần long xuống hạ trần
Câu đối ở ban thờ Tản Viên Sơn Thánh:
Thiên cổ Lăng Sương truyền cố sự
Nhất môn Thanh Thủy hiệp anh linh.
Qua cổng Đền là miếu Hai Cô, được gọi là miếu Nhà Bà, thờ phụng
Bạch Tinh Thần nữ, tinh chủ vùng đất cùng hai vị nhiên thần là Đào Hoa và Quế
Hoa. Sau miếu, hướng Tây có giếng Thiên Thanh quanh năm đầy nước, nhìn thấy tận
đáy.
Tương truyền đây là nơi rồng vàng hạ phàm, thánh Mẫu ra giếng
gánh nước về ngồi trên phiến đá tắm gội. Sau đó bà có mang 14 tháng và sinh ra
Tản Viên.
Khi Thánh Mẫu chuyển dạ, trong cơn đau vật vã, bà quỳ chân,
chống tay xuống phiến đá. Dấu đầu gối và năm ngón tay hằn lên phiến đá đến nay
vẫn còn. Vì thế nhân dân địa phương gọi đó là hòn Đá Quỳ và đặt hòn đá ngay bên
tang giếng Thiên Thanh.
Cạnh giếng Thiên Thanh là nhà bia được xây theo kiểu kiến
trúc nhà 4 mái, trong đặt tấm bia khắc năm Tự Đức nguyên niên (1848) ghi công đức
của những người có công tu sửa lại đền.
Trước sân đền là nhà võng. Tương truyền đây là nơi Sơn Thánh
Tản Viên lúc còn nhỏ thường được đặt nằm võng. Trong nhà có một chiếc võng phủ
vải đỏ, gọi là võng đào. Đặc biệt có 8 cột đá cao 2,1m được xây vào thời Lê. Giữa
nhà võng đặt một chậu bằng đá xanh hình vuông, tương truyền là chậu đá để Tản
Viên tắm khi còn nhỏ. Trên chậu đá có đặt một bòn đá tương truyền khi Thánh Mẫu
sinh Tản Viên xong đã dùng để chèn bụng.
Đền Lăng Sương có kiến trúc mang chất cổ kính, thâm nghiêm.
Kiến trúc ngôi đền được xây dựng theo kiểu chữ “công” gồm 3 gian đại bái, 3
gian hậu cung. Cột, vì kèo, kẻ, bẩy đều được tạo tác bằng gỗ tứ thiết. Mái đền
lợp ngói vẩy, đỉnh mái đắp nề lưỡng long quán Nhật.
Tòa Đại bái đặt ban thờ Sơn Thánh Tản Viên ở chính điện, hai
gian bên là ban và tượng thờ nhị vị tùy tướng giỏi, em kết nghĩa của Đức Thánh
Tản Viên là ngài Quý Minh Đại vương, Cao Sơn Đại vương.
Gian Hậu cung có tượng thờ Mẫu Đinh Thị Đen, thân mẫu của
Thánh Tản, tượng Đức Thánh Tản Viên, tượng Ngọc Hoa Công Chúa, phu nhân của Sơn
Thánh, hai bên là tượng thờ dưỡng mẫu của Thánh Tản Viên là Thánh Mẫu Ma Thị,
thánh phụ Nguyễn Cao Hành.
Đền còn lưu giữ các hoành phi, câu đối cổ, bia đá, tảng đá
nơi Thánh Mẫu Đinh Thị Đen quỳ sinh Đức Thánh Tản Viên.
Hàng năm đền Lăng Sương mở lễ hội cổ truyền vào 25 tháng 10
âm lịch (là ngày giỗ Mẫu sinh ra Thánh Tản) và rằm tháng giêng - giỗ chính (là
ngày sinh Thánh Tản).
Về ngày giỗ Thánh Mẫu có liên quan đến sự tích gò Đống Bò
cách đền chính hơn năm trăm mét có một gò đất nổi lên giữa cánh đồng Đầm Đành.
Tương truyền hàng năm cứ đến ngày 24 tháng 10 là có một con bò không biết ở đâu
tự nhiên về gò đó và nhân dân bắt mổ để tế lễ làm giỗ Đức Thánh Mẫu vào ngày 25
tháng mười hôm sau.
Còn ngày giỗ chính của Đức Thánh Tản thì làng xóm rậm rịch mở
hội từ những ngày trong Tết. Nhà nhà, dòng họ, các giáp chuẩn bị cỗ bàn, quần
áo, mũ mão cùng nhiều vật dụng cho ngày lễ hội.
Sáng 15 tháng giêng, các giáp rước cỗ ra đền và tập trung
thành đoàn rước của xã kéo quân từ Đền ra sông Đà với mục đích là lấy nước sông
Đà về làm lễ và đón mẹ nuôi của Thánh Tản bên Ba Vì về dự tiệc sinh Thánh. Tục
lấy nước cũng thể hiện sự tôn thờ thần nước của cư dân lúa nước của người Việt
xa xưa.
Lễ hội đền Lăng Sương là một trong những lễ hội lớn của vùng
núi Tản sông Đà và những di tích thờ Tản Viên Sơn Thánh. Lễ hội là sự kết hợp
giữa di sản văn hóa vật thể và di sản văn hóa phi vật thể hiện còn được bảo tồn
trên quê hương đất Tổ. Cùng với các di sản văn hóa khác, vùng đất Lăng Sương là
mảnh đất chứa đầy huyền thoại, truyền thuyết với các tục hèm như thả diều, tục
kiêng gọi tên húy…
Với những giá trị lịch sử và văn hóa tâm linh sâu sắc, đền
Lăng Sương đã được Bộ Văn hóa Thông tin ra quyết định số 25/2005/QĐ-BVHTT ngày
12-7-2005 xếp hạng là Di tích lịch sử cấp Quốc gia.
Di tích đền Lăng Sương đã được lập quy hoạch tổng thể nhằm bảo
tồn và phát huy những giá trị của các di sản văn hóa. Xây dựng Lăng Sương thành
một điểm tham quan du lịch văn hóa tâm linh phục vụ du khách thập phương và
phát triển kinh tế dịch vụ du lịch là hướng đi đúng của huyện Thanh Thủy và điểm
đến của du khách thập phương. Xuân Thu
Lễ hội đền Lăng Sương được tổ chức vào rằm tháng Giêng hằng
năm, ngày sinh Đức Thánh Tản Viên với những nghi lễ cổ truyền được gìn giữ từ
bao đời nay ở vùng Trung Nghĩa. Trải qua thời gian, ngôi đền lưu giữ những giá
trị lịch sử, văn hoá, là điểm nhấn tâm linh trên vùng Đất Tổ. Nơi đây gắn với
tín ngưỡng thờ cúng “Tứ bất tử” của người Việt, là “địa chỉ đỏ” giáo dục lòng
yêu nước, niềm tự hào dân tộc cho thế hệ hôm nay và mai sau.
Nguồn: Ban Tôn giáo Chính phủ