Đền Mẫu thờ bà Quý Phi họ Dương, người đã tuẫn tiết để giữ lòng chung thuỷ với vua và trung thành với Tổ Quốc. Theo “Đại Nam nhất thống chí” và “Thần tích” thì bà là vợ vua Tống Đế Bính (Trung Quốc).
Nằm ven hồ Bán Nguyệt phong cảnh hữu tình, mặt nước trong
xanh phẳng lặng, bốn bề cây xanh râm mát, di tích Đền Mẫu - phường Quang Trung
- Thị xã Hưng Yên - tỉnh Hưng Yên trở nên hài hoà sinh động mà lại trang
nghiêm.
Đền Mẫu thờ bà Quý Phi họ Dương, người đã tuẫn tiết để giữ
lòng chung thuỷ với vua và trung thành với Tổ Quốc. Theo “Đại Nam nhất thống
chí” và “Thần tích” thì bà là vợ vua Tống Đế Bính (Trung Quốc). Năm 1279, quân
Nguyên Mông xâm lược nước Tống, trước sức mạnh của giặc, vua Tống cùng hoàng tộc
xuống thuyền chạy về phương Nam tránh nạn.
Tướng nhà Nguyên Mông là Trương Hoằng Phạm cho quân đuổi
theo đến Nhai Sơn thì bắt được, vua Tống và một số phi tần không chịu khuất phục
đã nhảy xuống biển tự tận.
Dân chài cửa Càn Hải vùng Châu Hoan (Nghệ An) thấy bốn thi
thể người phụ nữ, y phục như hậu phi, cung phi trôi trên mặt biển. Họ vớt được
3 đem chôn cất, còn thi thể thứ 4 trôi ngược dòng lên phía Bắc.
Truyền rằng xác phụ nữ trôi ngược dòng đó ít ngày sau dạt
vào cửa sông vùng Phố Hiến, được dân cư ở đây vớt lên, mai táng chu đáo và lập
miếu thờ. Về sau, quan thái giám họ Du đời Tống trong cơn loạn lạc đã lưu lạc tới
vùng Xích Đằng - Phố Hiến, một đêm nằm mộng thấy Thái Hậu hiện về và nói: “Chị
em ta sau khi nhảy xuống biển, thượng đế khen là trinh tiết, phong cho làm Hải
Thần các cửa biển ở Châu Hoan, Sơn Nam đều thuộc chị em ta cai quản.
"Ông là tôi con của bản triều, nay lưu lạc đất khách quê người,
nên đến cửa Càn ở Hoan Châu thăm hỏi 1 lần rồi đến thượng lưu Đằng Giang, hạ
lưu Hoàng Giang huyện Kim Động, phủ Khoái Châu, trấn Sơn Nam Thượng mà phụng thờ
Quý phi”.
Tỉnh mộng, quan thái giám tìm đến hai nơi quả nhiên như lời
đã báo mộng. Ông đã cùng nhân dân tu sửa lại miếu, lập làng Hoa Dương để tưởng
nhớ đến Quý Phi họ Dương, người Trung Hoa. Khi thái giám mất, dân làng tôn xưng
làm Thành Hoàng làng thờ ở đình Hiến.
Đời Vua Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 2 (1294),
thân chinh đi đánh Chiêm Thành, khi qua đây nằm mộng thấy thần nữ (chỉ Dương
Quý Phi) đến xin âm phù giết giặc. Sau khi thắng trận trở về, nhớ tới công lao
đó của Quý Phi, một mặt nhà vua cho tôn tạo lại đền, miếu, một mặt cho các bến
bãi thu thuế thuyền buôn trích ra một phần cung cấp cho việc phụng thờ.
Người dân đi biển đến đây lễ bái cầu xin thuận buồm xuôi
gió... đều được như ý. Năm 1990, Đền Mẫu đã được Bộ VHTT công nhận là di tích
kiến trúc nghệ thuật.
Theo “Đại Nam nhất thống chí” Đền Mẫu xây dựng vào thời Trần
Nhân Tông, niên hiệu Thiệu Bảo nguyên niên (1279). Trải qua các triều đại, Đền
đều được trùng tu. Năm Thành Thái thứ 8 (1896), Đền Mẫu được trùng tu lớn
có quy mô như ngày nay.
Cây có tuổi gần bảy trăm năm được kết hợp bởi ba cây sanh, đa, si quấn
quýt lấy nhau tạo thế chân kiềng
Nghi môn của Đền được xây dựng khá đẹp, kiến trúc kiểu chồng
diêm hai tầng tám mái, cửa xây vòm cuốn, có một cửa chính và hai cửa phụ. Trên
vòm cuốn có bức đại tự ghi kiểu chữ Triện: “Dương Thiên Hậu - Tống Triều” và bức
chữ Hán: “Thiên Hạ mẫu nghi” (Người mẹ sáng suốt trong thiên hạ).
Qua nghi môn là sân đền, giữa sân có cây cổ thụ. Theo truyền
thuyết, cây có tuổi gần bảy trăm năm được kết hợp bởi ba cây sanh, đa, si quấn
quýt lấy nhau tạo thế chân kiềng vững chắc bao trùm toàn bộ ngôi đền.
Khu nội tự của đền được xây kiểu chữ Quốc gồm: Đại bái,
trung từ, hậu cung và hai dãy giải vũ. Toà đại bái với 3 gian, kiến trúc kiểu
chồng diêm hai tầng tám mái; các đao mái uốn cong mềm mại kiểu rồng chầu, phượng
mớm, lợp ngói vẩy rồng, chính diện đắp lưỡng long chầu nguyệt.
Kiến trúc đại bái thượng giá chiêng chồng rường con nhị, hạ
kẻ bảy; các con rường, đấu sen, trụ trốn chạm bong kênh hình lá hoá rồng, các bẩy
chạm hình đầu rồng. Hai bên đại bái là điện Lưu Ly và cung Quảng Hàn.
Trung từ gồm 3 gian, kiến trúc kiểu chồng rường đấu sen, lộng
lẫy với hệ thống câu đối, hoành phi, đồ tế tự, kiệu long đình, kiệu bát cống …
sơn son thếp vàng rực rỡ.
Hiện nay trong đền Mẫu vẫn còn lưu giữ nhiều hiện vật văn
hóa có giá trị cao như: phụng kiều, 2 kiệu long đình, long kiều, 2 lọ lộc bình,
2 bộ bát bửu, 2 bát hương to,... cùng nhiều hoành phi, câu đối, đại tự, đạo sắc
phong.
Nối với trung từ là 5 gian hậu cung, kiến trúc kiểu chồng rường
con nhị, các bức cốn chạm bong kênh hoa lá mềm mại. Dưới ánh sáng mờ ảo của đèn
nến, khói hương nhè nhẹ lan toả không gian tĩnh lặng nơi cung cấm như thấy được
sự linh thiêng huyền bí chốn thâm cung.
Hằng năm, lễ hội Đền Mẫu diễn ra từ ngày 10 đến 15 tháng 3
âm lịch. Lễ hội xưa được tổ chức rất linh đình, từ ngày 6/3 (ÂL) đã làm lễ chồng
kiệu, ngày mồng 10 tổ chức rước kiệu quan thái giám họ Du từ Đình Hiến lên Đền
Mẫu, ngày 11 lễ thỉnh kinh sau đó tổ chức rước nước, ngày 12 rước liềm (rước kiệu
vòng quanh các phố rồi lại quay về Đền Mẫu), ngày 13 rước kiệu đi du vòng quanh
các phố, đến Đình Hiến lại về Đền Mẫu, ngày 15 lễ rước kiệu thánh trả về Đình
Hiến và làm lễ rỡ kiệu kết thúc lễ hội.
Ngày nay, lễ hội được tổ chức đơn giản hơn. Ngày 10 tháng 3
âm lịch ruớc kiệu thánh từ Đình Hiến lên Đền Mẫu, ngày 12 tổ chức rước du vòng
quanh thị xã và ngày 15 rước kiệu thánh trở về Đình Hiến.
Đền Mẫu - một công trình kiến trúc thuần Việt, một di tích lịch
sử văn hoá gần gũi với nhân dân. Đền thờ Quý Phi họ Dương (người Trung Hoa),
đây là điểm khác biệt hiếm thấy trong các ngôi đền cổ của người Việt, thể hiện
tình đoàn kết hữu nghị của nhân dân 2 nước Việt - Trung.